6 thg 12, 2010

Luận văn thạc sỹ của Đặng Thị Tuyết

Trang "Bến không chồng" đã đăng hai luận văn của Phạm Giang và Minh Huyền, nay trân trọng giới thiệu thêm luận văn thạc sỹ của bạn Đặng Thị Tuyết cùng về ba tác phẩm tiểu thuyết Bến không chồng, Trần gian người đời và Dưới chín tầng trời của Dương Hướng để các bạn tham khảo.

A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Thuộc số các nhà văn xuất hiện và trưởng thành từ phong trào văn nghệ quần chúng, Dương Hướng đến với nghiệp văn khá muộn nhưng đã kịp để lại cho đời những tác phẩm được bạn đọc yêu thích. Đó là cái tài và cũng là cái duyên của người cầm bút.
Đặc biệt trên lĩnh vực tiểu thuyết, nhà văn đã gặt hái được thành công đáng ghi nhận. Cùng với “Thân phận tình yêu” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng là một trong ba tác phẩm tiêu biểu của văn học thời điểm cao trào đổi mới văn học. Dù chỉ là nhà văn “nghiệp dư” với số lượng tiểu thuyết khá khiêm tốn (3 cuốn) nhưng Dương Hướng đã là một cái tên thường được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu về văn học sau 1975. Với cảm quan hiện thực nhạy bén và tinh thần công dân đầy trách nhiệm, nhà văn đã không ngại đối thoại với những quan niệm đơn giản về hiện thực. Đất nước hòa bình nhưng vẫn còn đó những nỗi đau, những mất mát đang hiện hữu như nỗi nhức nhối của lương tâm, không thể làm ngơ. Dương Hướng đã mạnh dạn nhìn sâu vào bi kịch của cả một lớp người: những toan tính lầm lạc, những ảo vọng cùng những khao khát đầy nhân bản…Tất cả cuộn lên trên từng trang văn của ông.
          Viết không nhiều, chỉ với 3 cuốn tiểu thuyết, và 2 tập truyện ngắn, Dương Hướng đã góp thêm dẫn chứng để khẳng định một quy luật văn chương “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Với “Bến không chồng”, người ta ghi nhận ông như một gương mặt sáng giá của cao trào đổi mới văn học. Tiếp đó “Trần gian người đời”, dù không gây được tiếng vang  nhưng đó thực sự vẫn là một cuốn tiểu thuyết chững chạc. Và gần đây nhất, nhà văn đánh dấu sự quay trở lại thể loại tiểu thuyết khá ấn tượng bằng tác phẩm “Dưới chín tầng trời”. Trên hành trình 20 năm, tiểu thuyết của ông cũng đã có sự vận động về tư tưởng và bút pháp. Những bài viết về tác giả, tác phẩm Dương Hướng mới chỉ dừng lại ở những nhận xét mang tính gợi dẫn, khái quát, chưa có một công trình chuyên sâu về đặc điểm tiểu thuyết của ông. Chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng” với mong muốn nhìn lại con đường sáng tạo khá thầm lặng, khiêm tốn mà bền bỉ xem tiểu thuyết của ông có đóng góp gì cho nền văn học nước nhà.
 Trình làng bằng tác phẩm “Bến không chồng”, Dương Hướng tiếp tục khuynh hướng tiểu thuyết luôn bám sát những vấn đề nóng bỏng đặt ra trong từng thời điểm cụ thể của đời sống xã hội. Gắn với quan niệm coi “nhiệm vụ cao cả của nhà văn là kiếm tìm cái đẹp và phải biết khai thác tới tận cùng để nhìn cho thấu cả nỗi khổ đau và niềm đam mê khát vọng trong tâm hồn con người” (18), tư duy tiểu thuyết Dương Hướng nghiêng về nghiên cứu đời sống xã hội, phát hiện những vấn đề nghiêm túc của cõi người ẩn sau các sự vật hiện tượng tưởng thật giản đơn, quen thuộc. Luận văn này đi từ bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại để cố gắng nhận diện đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng, qua đó góp phần khẳng định sự vận động phong phú, đa dạng của văn xuôi sau 1975.
          2. Lịch sử vấn đề.
Năm 1991, “Bến không chồng” là cái tên được nhắc tới khá nhiều trong giới nghiên cứu phê bình.  Nguyễn Văn Long có bài phê bình trên Báo văn nghệ: “ Tác phẩm cho thấy một phương diện của thực trạng đời sống tinh thần trong nông thôn(…). Trong Bến không chồng, Dương Hướng cho thấy là trong nhiều trường hợp, con người vừa là nạn nhân mà cũng là thủ phạm của tấn bi kịch đời mình, họ phải chịu trách nhiệm một phần về số phận của mình. Cách nhìn của anh, theo tôi là đúng mực, bình tĩnh và khách quan mà vẫn toát lên niềm tin và nỗi xót xa về con người…” (43,406). Theo tác giả, nông thôn trong tác phẩm của Dương Hướng không được khai thác sâu ở phương diện các phong trào cách mạng, các vấn đề của đời sống chính trị xã hội mà ông tập trung làm rõ ý thức và tập quán về họ tộc  tới số phận con người. Đó là yếu tố làm nên cái mới và sức hấp dẫn ở cuốn tiểu thuyết này: “Bến không chồng không có những tìm tòi mới lạ về nghệ thuật. Cách trần thuật và miêu tả của Dương Hướng mộc mạc tự nhiên, có những chỗ còn đơn giản và thô vụng nữa. Sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết chính là ở sự chân thực, ở vốn hiểu biết đời sống nông thôn và một cách nhìn cảm thông, nhân đạo với số phận con người…”(43, 407). Nhận định của nhà nghiên cứu cho chúng tôi những gợi ý quý báu.
Trong bài “Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời”, Phong Lê cho rằng: “Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến… với gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con người, trong một bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai "do lịch sử để lại" đã không đủ tầm và sức để vượt qua(…).
 (…) Bến không chồng lại có được một vẻ đẹp khác trong khuôn hình cổ điển: mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ; - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên…”(18).
 Phong Lê lí giải căn nguyên đổ vỡ, khổ đau của những phận người trong tác phẩm là “do lịch sử để lại”. Cơn bão lịch sử đã tác động vô cùng dữ dội tới số phận con người. Đi qua nó, người ta mới có dịp nhìn lại để mà xót đau, thương mình và cũng giận mình “vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân”.
Trong bài “Dương Hướng luôn viết theo lối phản biện”, tác giả Nguyễn Duy Liễm viết: “Viết “Bến không chồng” Dương Hướng đã nghiễm nhiên rẽ ngoặt. Tác phẩm của anh là một nhát gạch chéo vào cái lối mòn rỗng tuếch mà nhàm nhẵn ấy(…). Đọc lại “Bến không chồng”, vẫn làm ta lặng đi suy ngẫm về sự “xé rào” táo tợn của anh(…). Dương Hướng đã mở đường cho văn học mới bứt phá. Xóa đi. Để rẽ ngang một giai đoạn cho văn học đương đại Việt Nam, nó chấm dứt một giai đoạn văn học người cầm bút chỉ biết thuyết trình và minh họa”(18).
Tham luận hội thảo khoa học của Khoa Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, tác giả Bùi Thị Giang có bài “Ý nghĩa biểu trưng của từ “Bến” trong tác phẩm Bến không chồng của Dương Hướng” . Chị đã đi sâu giải mã các tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm: “Đến “Bến không chồng”, Dương Hướng chọn bến nước như là nơi tập trung nhất mọi đổ vớ, đứt gãy trong từng thân phận... Với Dương Hướng, bến quê là nơi biểu hiện dày đặc những bi kịch. Trong chính hình ảnh mang tính biểu trưng cho văn hoá dân tộc, văn hoá nông thôn, Dương Hướng tìm thấy sự tồn tại dai dẳng những nỗi đau. Nguyên nhân của những đổ vỡ ấy, suy cho cùng là bởi chiến tranh khốc liệt, và một phần bởi những hủ tục lạc hậu bóp nghẹt con người...”(18). Nỗi đau và bi kịch là hướng chính mà Dương Hướng muốn tiếp cận thông qua tín hiệu thẩm mĩ “bến”. Đây cũng là cách tiếp cận mới mẻ của Dương Hướng trong hoàn cảnh chiến tranh đã đi qua, văn chương đặt ra nhu cầu nhận thức lại - nhận thức chân xác và nhân văn hơn về hiện thực
Sau “Bến không chồng”, 15 năm sau, Dương Hướng cho xuất bản cuốn “Dưới chín tầng trời”. Cuốn tiểu thuyết xuất hiện lập tức gây xôn xao dư luận bởi tính thời sự và những vấn đề khá gai góc mà nó đã đặt ra. Đúng như tên gọi, “Dưới chín tầng trời” trải rộng trên nhiều không gian: từ Bắc chí Nam, từ làng ra phố và lên tới vùng biên...Có vẻ như tác giả “tham vọng” ôm vào lòng hầu hết các biến cố lớn của dân tộc trong hơn 50 năm qua: cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hóa miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ, hòa bình lập lại, chiến tranh biên giới và thời mở cửa...Cuốn sách đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau.
Phong Lê trong bài “Từ Bến không chồng tới Dưới chín tâng trời” cho rằng: “Dưới chín tầng trời, hơn 500 trang cỡ lớn - đặc chữ, ôm chứa một sự sống trải dài suốt hơn nửa thế kỷ, gồm nhiều hệ nhân vật, với số lượng tính cả chính - phụ là đến cả trăm, không chỉ vượt hẳn Bến không chồng và Trần gian - người đời gộp lại mà còn vượt lên nhiều tiểu thuyết khác, để đứng ở hàng đầu về quy mô và tầm vóc phản ánh…”.
“Dưới chín tầng trời”, đó là toàn cảnh nhân gian; và với cái tên sách đó, Dương Hướng dẫn dắt người đọc đi gần trọn một thế kỷ của lịch sử dân tộc, với những chuyển động, những biến đổi, những bước ngoặt qua số phận của nhiều chục nhân vật, không nhân vật nào không phải trải những va dập của lịch sử mà thay đổi và biến dạng cả số phận, để trở thành hoặc là tội nhân hoặc là nạn nhân; để được là chính nhân hoặc là phế nhân; là thiện nhân hoặc ác nhân. Phong Lê cũng chỉ ra sự tìm tòi, đổi mới về cách viết của Dương Hướng sao cho vừa chuyển tải được nội dung một cách hiệu quả, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc: “33 chương, không theo tuyến tính thời gian mà là theo sự lắp ghép và cấu trúc các khối đời, vừa độc lập với nhau, vừa xen cài vào nhau, qua đó là hướng đi, là cách đi của lịch sử - như một nhân vật vô hình đầy quyền năng. Đọc Dưới chín tầng trời cần tính đến sự ám ảnh của "nhân vật" vô hình này, với sự chi phối, sức ngự trị của nó trong mọi hành vi, ứng xử của con người. Lịch sử, qua Dưới chín tầng trời, đó là cả một cuộc chơi lớn; nói cách khác là kẻ cầm chịch cho cuộc chơi. Những biểu tượng, cũng có thể xem là những tìm tòi hoặc sáng tạo của Dương Hướng”(18).
Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng: “Nếu như tiểu thuyết trước hết là cốt truyện thì tác phẩm này thừa sức hấp dẫn. Vì cốt truyện rất ky kỳ, nhiều tuyến nhân vật quan hệ éo le, nhiều tuyến hành động diễn ra các miền Trung, Nam, Bắc, có xóm làng và thành phố, có chiến trường ác liệt ở miền Nam và sinh hoạt nhộn nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc... Một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước”(18).
Bùi Việt Thắng trong bài: “Bi kịch lạc quan trong tác phẩm Dưới chín tầng trời” cho ràng đây là cuốn tiểu thuyết đậm chất “sử thi” và “tâm lí”: “ Nói tiểu thuyết mới của Dương Hướng đậm chất sử thi và tâm lí hoàn toàn có cơ sở. Tác phẩm được mở ra với một thời gian dài...và một không gian rộng...và tầng tầng lớp lớp nhân vật. Một hình ảnh đời sống trọn vẹn, đa chiều và phức tạp từ “thượng đỉnh” tới “hạ giới”...Cái khéo của người viết tiểu thuyết là đan cài lịch sử - sự kiện với lịch sử tâm hồn”(18). Điều đó tạo nên một cấu trúc đặc biệt phức tạp, đòi hỏi nhà văn phải có tay nghề cao để xử lí chất liệu, điều khiển nhân vật và tổ chức các lớp lang tác phẩm.
Như vậy trừ cuốn “Trần gian người đời”, hai cuốn tiểu thuyết “Bến không chồng”, và “Dưới chín tầng trời” thực sự đuợc dư luận quan tâm.  Tuy nhiên tất cả những nhận xét, đánh giá trên mới dừng lại ở ấn tượng khái quát. Cho tới nay chưa có công trình nào bàn kĩ về tiểu thuyết  Dương Hướng. Những tư liệu chúng tôi có đươc chưa đủ sâu và rộng nhưng đã kích thích để chúng tôi chọn đề sâu nghiên: “Đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng” như một công trình chuyên biệt.
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng.
Đặt vấn đề nghiên cứu “Đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng”, luận văn sẽ khảo sát toàn bộ ba tiểu thuyết của nhà văn và ở một chừng mực nhất định sẽ có sự so sánh, đối chiếu với tiểu thuyết một số nhà văn cùng thời.
2.2 Phạm vi nghiên cứu.
Nhằm đạt được các mục tiêu khoa học đề ra, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những bình diện cơ bản sau đây.
2.2.1 Nội dung tiểu thuyết Dương Hướng.
Nội dung tiểu thuyết của Dương Hướng rất phong phú, đặc biệt với cuốn tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, nhà văn đã đặt ra những vấn đề bề bộn. Chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu hai mảng đề tài nhà văn tâm đắc nhất và xuất hiện xuyên suốt trong các tiểu thuyết của ông là đề tài về nông thôn và đề tài về người lính.
2.2.2 Nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng.
Dương Hướng không có những cách tân táo bạo về mặt nghệ thuật, tuy vậy nhà văn cũng đã có những đóng góp nhất định trong việc làm mới cách viết của mình trên một số bình diện để chuyển tải nội dung và đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của độc giả.
Lựa chọn các bình diện nghiên cứu trên, luận văn mong muốn xác lập một cấu trúc hợp lí và tương đối tiêu biểu về đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng trong sự chi phối và vận động của nền văn học hiện đại.
3. Phương pháp nghiên cứu.
3.1. Phương pháp nghiên cứu tác gia văn học:
Luận văn nghiên cứu tiểu thuyết của Dương Hướng như một quá trình vận động liên tục của những quan niệm về con người, về hiện thực và về bút pháp, từ đó lý giải những tương tác giữa hoàn cảnh lịch sử - xã hội với khát vọng sáng tạo của nhà văn.
 3.2. Phương pháp nghiên cứu theo thể loại:
Luận văn nghiên cứu chuyên sâu tiểu thuyết Dương Hướng cho nên việc vận dụng thi pháp thể loại là cần thiết để nhận diện thành công cũng như hạn chế của tác phẩm.
3.3. Phương pháp phân tích, khái quát, so sánh:
Để làm phong phú, sáng tỏ thêm nhiều phương diện, chúng tôi còn vận dụng những yếu tố hỗ trợ của các phương pháp nghiên cứu văn học khác như: phương pháp phân tích cảm thụ tác phẩm văn học, phương pháp tổng hợp -  hệ thống hóa và so sánh.
4. Đóng góp mới của luận văn.
 Nghiên cứu tiểu thuyết Dương Hướng trong tiến trình chung của văn xuôi đương đại Việt Nam, bao quát một cách hệ thống thành công lẫn hạn chế của tác giả qua đó khẳng định một con đường lao động thầm lặng mà hiệu quả.
5. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm có ba chương.
Chương một : Tiểu thuyết Dương Hướng trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam từ đổi mới đến nay.
Chương hai : Nội dung tiểu thuyết Dương Hướng.
Chương ba : Nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng.





B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Tiểu thuyết Dương Hướng trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam từ đổi mới đến nay.
1. Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam từ đổi mới đến nay.
   1.1. Về phương diện nội dung.
 Sau 1975, đề tài chiến tranh vẫn được nhiều cây bút tiểu thuyết quan tâm . Sức hấp dẫn của hai cuộc kháng chiến thần thánh vẫn luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. Một loạt cuốn tiểu thuyết về chiến tranh cuối những năm 1970 được viết ngay khi chiến tranh vừa kết thúc với ấn tượng còn nóng hổi của những nguồn tư liệu “mắt thấy tai nghe”, chưa đủ thời gian để lắng lại, nhưng vì thế mà nó sinh động và đặc biệt là rất kịp thời đáp ứng nhu cầu của người đọc muốn hiểu rõ hơn về cuộc chiến đấu. “Miền cháy”, “Những người đi từ trong rừng ra” ( Nguyễn Minh Châu), “Trong cơn gió lốc” ( Khuất Quang Thụy), “Nắng đồng bằng” ( Chu Lai), “Mở rừng” ( Lê Lựu) vv… là những cuốn tiểu thuyết đã tái hiện được hiện thực chiến tranh rộng lớn, khốc liệt một cách chân thực và sắc nét. Đã bớt hẳn cái nhìn giản đơn, dễ dãi như nhiều tác phẩm giai đoạn trước, những cuốn tiểu thuyết này có nét mới ở chỗ đã không né tránh khía cạnh tổn thất đau thương của chiến tranh, đặc biệt là những cảnh ngộ, những mảng tâm trạng hết sức riêng tư nhưng giàu tính nhân bản…Những mảng hiện thực mà văn học ở giai đoạn trước chưa kịp phản ánh hoặc né tránh thì nay được tiếp tục khai thác với những cảm hứng mới - cảm hứng bi kịch nhân văn, cảm hứng nhận thức lại, cảm hứng trào lộng… Nhìn chung “Tính chất thi vị réo rắt mất đi, tính chất tỉnh táo, sâu lắng được tăng cường” ( Trần Đình Sử).
          Loại tác phẩm viết về cuộc sống hiện tại cũng nhiều trăn trở và trầm tư hơn. Những màu sắc thẩm mĩ đa dạng của cuộc sống thực như: cái cao cả, cái thấp hèn, cái hài và cái bi, chất sử thi và chất trữ tình, chất văn xuôi và chất thơ…cùng đan cài vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau.
 Đầu những năm 80 đánh dấu bước chuyển mạnh của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng với những đề tài nổi lên là gia đình, tình yêu, những vấn đề đạo đức - thế sự, hướng vào các giá trị nhân bản, mạnh dạn đề xuất những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với thời đại.
 Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 so với tiểu thuyết trong thời kỳ chiến tranh đã có nhiều chuyển biến mới từ đề tài, cốt truyện, nhân vật, đến thể loại và thi pháp. Đó là sự chuyển hướng dần từ tư duy sử thi sang tư duy thế sự, chuyển từ cảm hứng ngợi ca, khẳng định sang chiêm nghiệm, suy tư. Ta đã quen bắt gặp cái nhìn rạch ròi thiện – ác, bạn – thù trong thời kỳ trước thì trong tiểu thuyết đương đại là cái nhìn đa chiều phức tạp về hiện thực và số phận con người. Vẫn còn tiểu thuyết mang tinh thần sử thi nhưng không mấy thành công. Đề tài lịch sử đang dần nhường chỗ cho đề tài thế sự và đời tư gắn với nhu cầu công bố kinh nghiệm cá nhân. Tiểu thuyết đã dám nhìn vào những mảnh vỡ, những bi kịch nhân sinh, những mặt tối của cuộc sống bằng cái nhìn trung thực và táo bạo: “Hiện thực về con người trở nên phong phú nhiều chiều…có mẫu người như một sản phẩm của trạng thái hoài nghi, bên cạnh “con người ý thức” còn có “con người vô thức”, bên cạnh “con người tự nhiên” có “con người tâm linh”, có người “lớn hơn thân phận mình”, lại có người “bé nhỏ hơn tính người của mình” (7,22).  
Từ giữa thập kỉ 80 đến đầu thập kỉ 90 nổi lên khuynh hướng tiểu thuyết “nhận thức lại hiện thực”: “Nếu ở giai đoạn văn học trước, con người là phương tiện biểu đạt cái lịch sử thì bây giờ lịch sử lại trở thành phương tiện để biểu đạt con người. Mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực như vậy là đã thay đổi cơ bản…Lịch sử theo kinh nghiệm cộng đồng chuyển thành lịch sử theo kinh nghiệm cá nhân”(7,23). Biết bao vênh lệch trong thói quen, trong chuẩn mực giá trị, biết bao bi kịch chưa hề xuất hiện trong chiến tranh, bao vấn đề bề bộn, phức tạp thời hậu chiến - đó là những bức xúc, nhức nhối mà văn học hôm nay cố gắng phản ánh. Nhà văn không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng như trước đây được nữa. Giờ đây, họ phải dựa cả vào kinh nghiệm cá nhân, vào trực giác, lắng nghe những mách bảo của tiềm thức, tìm đến những suy đoán, dự cảm, thậm chí vượt khỏi thói quen và chuẩn mực thông thường khi phản ánh và lí giải hiện thực - cái hiện thực đầy biến ảo trong muôn ngàn dạng thái của những số phận đời tư, những tình trạng đạo đức xã hội. “Thời xa vắng” của Lê Lựu là tác phẩm thành công mở đầu cho khuynh hướng này. Trong tác phẩm Lê Lựu không chỉ đặt vấn đề nhân cách con người mà còn phân tích tác động ngặt nghèo của hoàn cảnh khiến con người bị hoàn cảnh nhào nặn thành kẻ buông xuôi không tự định đoạt được cuộc sống của mình. Các nhà văn quan tâm nhất tới số phận con người và bi kịch đời thường của họ, đó là bi kịch giữa khát vọng và thực tại, giữa sự cố gắng vươn lên và sự bị kìm hãm, giữa nhân bản và phi nhân bản… Những mạch ngầm và ghềnh thác của mỗi phận người trong và sau chiến tranh được khai thác toàn vẹn hơn (“Nỗi buồn chiến tranh” - Bảo Ninh), đề xuất những phép ứng xử với lịch sử ( “Phẩm tiết”, “Vàng lửa”, “Kiếm sắc” - Nguyễn Huy Thiệp ), với cuộc sống hiện tại ( “Mảnh đất lắm người nhiều ma” – Nguyễn Khắc Trường), thể hiện thái độ tích cực đối với cuộc đấu tranh tự hoàn thiện nhân cách, phẩm giá con người(“Bức tranh”- Nguyễn Minh Châu). Khám phá cái thế giới sâu thẳm của con người cá nhân trở thành cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ của các nhà văn. Tiểu thuyết giai đoạn này đã “quan niệm con người cá nhân như một nhân cách, một nhân cách kiểu mới” . Đó là những con người vừa có khiếm khuyết, bất toàn vừa đẹp đẽ, thánh thiện.
Đặc biệt, ở giai đoạn văn học này, các cây bút đã đi vào khám phá con người tự nhiên và những chiều sâu bí ẩn của tâm linh, tiềm thức, vô thức. Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương … đều nhấn mạnh phương diện bản thể tự nhiên của con người, tạo nên tiếng nói đa thanh đầy “hòa âm” và “nghịch âm” trong tiểu thuyết đương đại.
1.2. Về phương diện nghệ thuật.
Cùng với sự đổi mới về nội dung, các nhà văn đã cố gắng tìm tòi, thể hiện những cách tân về phương diện nghệ thuật. Bên cạnh những cốt truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng. Những tác phẩm truyền thống có kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc (“Thời xa vắng” - Lê Lựu, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” - Nguyễn Khắc Trường, “Vầng lửa ngũ sắc” - Ngô Văn Phú, “Cỏ thiêng” - Hồng Phi…). Bên cạnh đó là những tiểu thuyết được làm mới với cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại, kết thúc mở ( “Ngược dòng nước lũ” - Ma Văn Kháng, “Ăn mày dĩ vãng” - Chu Lai, “Nỗi buồn chiến tranh” - Bảo Ninh, “Chim én bay” - Nguyễn Trí Huân, “Cơ hội của Chúa” - Nguyễn Việt Hà…). Đối tượng phản ánh của văn học cũng đã được di chuyển từ một “quá khứ tuyệt đối” sang một hiện tại chưa hoàn thành cùng những nhân vật chưa hoàn kết. Từ vai trò đại diện cho sức mạnh, tầm vóc, trí tuệ và vẻ đẹp cộng đồng đến sự đại diện cho bản chất Người trong mỗi cá nhân, vị trí của nhân vật đã có sự di chuyển từ khoảng cách cao cả tôn kính tới sự gần gũi đời thường (“Mưa Nhã Nam” - Nguyễn Huy Thiệp). Đó không phải là sự hạ thấp nhân vật, trái lại đó là cách thể hiện toàn vẹn hơn các nhân vật, là sự khẳng định tính dân chủ, tích cực của văn chương, khiến cho văn chương trở về gần hơn với cuộc đời, với con người. Chức năng khái quát tính cách của nhân vật cũng mờ nhạt hơn mà thay vào đó nhân vật chủ yếu được nhà văn gửi gắm một tư tưởng nào đó( “Thiên Sứ” - Phạm Thị Hoài), là phương tiện để nhìn lại quá khứ ( “Bước qua lời nguyền” - Tạ Duy Anh), quan sát sự thăng trầm của số phận ( “Thời xa vắng” - Lê Lựu)… Để khắc họa chân dung nhân vật đầy đặn hơn, các nhà văn đã sử dụng kỹ thuật đồng hiện, độc thoại nội tâm ( “Ăn mày dĩ vãng” - Chu Lai) sử dụng huyền thoại ( “Con gái thủy thần” - Nguyễn Huy Thiệp), đa giọng điệu ( “Đi tìm nhân vật” - Tạ Duy Anh, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” - Nguyễn Minh Châu)…
Con người không còn thuần túy là đối tượng văn học ngợi ca mà còn là đối tượng để nhà văn nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đối chứng. Do đó, giọng điệu trần thuật từ trang trọng tôn kính chuyển sang thân mật, suồng sã đời thường. Lối viết đa thanh, phức điệu cũng được sử dụng triệt để. “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” của Nguyễn Minh Châu thể hiện khá thành công giọng điệu đa thanh. Không chỉ có Quỳ tự đối thoại với mình, dằn vặt trăn trở trong những cơn mộng du của hồi tưởng để tìm đến sự tự nhận thức, tìm đến chân lý cuộc sống mà còn là cuộc đối thoại giữa Quỳ với “anh ấy”, giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu và sống bên cô…để giải mã những ẩn ức trong người đàn bà nhạy cảm này.
Bên cạnh đối thoại, độc thoại nội tâm cũng là một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật. Đặc biệt kĩ thuật dòng ý thức sử dụng thời gian đồng hiện, hồi ức, hoài niệm, dòng suy tưởng, những giấc chiêm bao…để nhân vật tự bộc lộ những miền sâu kín của tâm hồn nằm ngoài vòng kiểm soát của ý thức con người. Nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức của con người, khai thác “con người ở bên trong con người”. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” ( Bảo Ninh), “Ăn mày dĩ vãng” (Chu Lai), “Chim én bay” (Nguyễn Trí Huân), “Thiên sứ” (Phạm Thị Hoài)…
Như vậy giai đoạn này các nhà văn đã có những cố gắng tìm tòi, có sự cách tân về cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật làm cho diện mạo văn học trở nên phong phú, bề thế hơn. Dương Hướng là nhà văn vẫn trung thành với phong cách truyền thống nhưng có mở rộng đào sâu. Tiểu thuyết của ông dễ đọc, có những cái mới trong cách xử lý hình tượng, xây dựng nhân vật nhưng không tạo ấn tượng về một hiện tượng cách tân. Sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của nhà văn là ở sự dung dị, rất đời thường nhưng không kém phần sâu sắc với một văn phong mộc mạc, tự nhiên pha chút hài hước châm biếm…
2. Quan niệm về văn chương của Dương Hướng.
Xét về bản chất thể loại, M.Bakhtin cho rằng “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình”. Nghĩa là tiểu thuyết không thể có những quy phạm cố định như các thể loại đã hoàn tất. Với ý nghĩa là một nghệ thuật khám phá thực tại, trong qúa trình vận động, diện mạo của tiểu thuyết không ngừng biến đổi để phù hợp với sự phát triển đa dạng, nhiều chiều của cuộc sống và thị hiếu tiếp nhận của người đọc ở mỗi thời đại. Luôn luôn mới, đó là yếu tố làm nên sức hấp dẫn kì diệu của tiểu thuyết. Nó có thể “bước qua các ranh giới đặc trưng của văn học -  nghệ thuật: lúc thì nó biến thành bài thuyết giảng đạo đức, lúc thì nó biến thành một khảo luận triết học, lúc thì nó biến thành một diễn văn chính trị” ( 3,66). Tiểu thuyết là một thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất và đồng hóa các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác vào mình. Chính điều này tạo ra viễn cảnh “mở rộng bến bờ của tiểu thuyết”, thúc đẩy nhanh quá trình tìm tòi thử nghiệm để không ngừng cách tân tiểu thuyết về thể loại, đem lại cho tiểu thuyết những diện mạo mới, hiện đại.
          Kundera thì cho rằng: “Khám phá ra cái mà chỉ có tiểu thuyết mới khám phá được, đó là lẽ sống duy nhất của một cuốn tiểu thuyết. Cuốn tiểu thuyết nào không khám phá ra thêm được một mẫu sự sống trước nay chưa từng biết là một cuốn tiểu thuyết vô đạo đức. Hiểu biết là đạo đức duy nhất của một cuốn tiểu thuyết” (35,10). Như vậy, quan niệm của Kundera đặt ra yêu cầu đối với nghệ sĩ phải có thực tài “khám phá ra thêm được một mẫu sự sống”, coi đó là “đạo đức” khi cầm bút.
Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:
“Tiểu thuyết không phải chỉ miêu tả cuộc sống riêng tư, không phải chỉ là “ anh hùng ca của cuộc sống cá nhân”, tiểu thuyết còn là bức bích họa khổng lồ bao quát cả một thời đại. Tiểu thuyết có khả năng miêu tả một cách quy mô toàn diện thế giới khách quan rộng lớn, có thể tái hiện những xung đột căng thẳng đầy kịch tính trong hành động và ngôn ngữ của con người, một mặt khác lại có thể đi sâu vào những biểu hiện rất nhỏ, rất tinh tế của đời sống tâm lí bên trong. Thông qua những con người bình thường, những sự việc hàng ngày, có khi rất cá nhân, rất riêng tư của con người để phản ánh những vấn đề lớn lao có ý nghĩa phổ biến toàn thế giới. Tiểu thuyết vốn phong phú phức tạp và đa dạng như cuộc sống. Mà trong cuộc sống đâu phải chỉ có đen - trắng, chính - tà, trung - nịnh. Nếu cuộc đời của chúng ta được phân chia một cách rạch ròi đơn giản như vậy thì nhân loại đã đỡ được bao nhiêu máu và nước mắt trên con đường tìm ra lẽ phải và chân lí…Tiểu thuyết phản ánh sự chuyển hóa lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau giữa những sắc màu thẩm mĩ của cuộc sống”.
 Đọc những nhà văn lớn thấy sự từng trải của họ thật đáng sợ. Đó là những bậc thầy, họ hiểu biết đến những ngóc ngách sâu xa nhất của lòng người. Và họ không chịu dừng lại vì cái bề ngoài nào, ngòi bút của họ lột ra mọi sự thật của đời sống, dù điều đó làm họ đắng cay đến đâu. Đồng thời thấm trong mỗi dòng mỗi chữ lại là một tình yêu thương, một niềm tin, và sự đòi hỏi rất cao đối với con người, một con mắt thấu suốt làm những cái bình thường hàng ngày hiện lên trong một ánh sáng mới lạ khiến ta không quên được.
 Một thể loại văn học phải chứng tỏ sức sống của nó ở tính đa dạng và không ngừng cách tân. Nhất là đối với tiểu thuyết, một thể loại có sức chứa và sức chở rất lớn. Tiếp thu các hình thức tiểu thuyết chính là để trở về xem xét con người Việt Nam một cách đa dạng và để đào xới nó sâu hơn. Con người ấy được nhào nặn từ hàng nghìn năm với biết bao quan hệ, thói quen làm ăn tập tục và truyền thống văn hóa. Gắn chặt với sự đổi mới quan niệm con người, là sự đổi mới một số thủ pháp nghệ thuật. Trong bài “ Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kì đổi mới”( Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 1-2002), Lý Hoài Thu viết: “Đề tài chiến tranh với quy mô hiện thực rộng lớn nhiều tầng, nhiều mảng, nhà văn xoáy sâu vào những vấn đề cốt yếu của đời sống thông qua tiêu điểm nhân vật…Cũng là người lính, người mẹ, người vợ nhưng giờ đây họ được soi rọi từ nhiều goác độ khác nhau, được đặt trong nhiều vòng xoáy của cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất. Nhân vật không còn mờ nhạt đơn điệu mà có sự kết hợp giữa hình dạng và nội tâm, giữa ý thức và vô thức, giữa dục vọng bản thân và ước mơ thánh thiện…Thế giới của nhân vật tiểu thuyết thời kì đổi mới đa phần muôn màu bi kịch, ai cũng có những giai đoạn gập gềnh chông gai, những nỗi niềm trắc ẩn, những thua thiệt mất mát, nhưng đó là những bi kịch mang ý nghĩa thức tỉnh, luôn hướng tới hoàn thiện nhân cách”
 Khi nghĩ về Tiểu thuyết và thực tại hôm nay, tác giả Nguyễn Minh Tấn khẳng định “Tiểu thuyết có sức mạnh của một vũ khí tầm xa, sức nổ mạnh. Nó có khả năng bao quát một mảng hiện thực rộng lớn, tạo nên một bức tranh toàn cảnh của một giai đoạn, một thời kì lịch sử. Nó có thể đặt ra những phương án có tầm cỡ chiến lược, trải dài trong nhiều chiến dịch. Nó có sức đi vào một khía cạnh sâu sắc của cuộc sống con người. Nó có sức khám phá những nguồn mạch biện chứng của tâm hồn, soi sáng được cái Thiện và cái Ác, cái Cao cả và cái Thấp hèn”.
          Sau 1986, không khí đổi mới tiểu thuyết thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống văn học, tiểu thuyết có điều kiện cân bằng lại trạng thái tâm lí con người. Dòng tiểu thuyết hướng nội tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế nhất trong tâm hồn con người đã xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận “Văn học chăm chú quan tâm hơn đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân phong phú, phức tạp, đa dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết sức phức tạp và đa dạng với toàn xã hội và với chính mình” (50). Không loại bỏ xu hướng “hướng ngoại” và quan tâm hơn đến xu hướng “hướng nội”, tiểu thuyết giai đoạn này đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, đối thoại với đời sống, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt được “cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng” ( Nguyễn Khải ), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn con người để lắng nghe tất cả những âm vang của tiếng lòng bí ẩn trong con người : có tiếng yêu thương, có lời giận hờn, có cả những quanh co, tính toán ngấm ngầm… Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề thuộc về đời sống xã hội mà văn học quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối như thế trong tiểu thuyết bởi các nhà văn đã khai thác tới tầng vỉa của hiện thực đời sống qua số phận con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người của con người. Vì vậy ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi nhân gian” rộng lớn và cái mênh mông, thăm thẳm sâu của cõi lòng bé nhỏ, qua số phận của những con người. Những quan niệm về tiểu thuyết trên đây được coi là tiền đề đi vào nghiên cứu thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng.
Không phải là một nhà văn lớn và có những tuyên ngôn nghệ thuật có tính chất khai sáng, mở đường, nhưng Dương Hướng khi dấn thân vào nghiệp cầm bút cũng đã tự xác định cho mình một quan niệm về nghề văn khá rành rõ:
“Cái đích cuối cùng của văn học, theo tôi, là phản ánh những nỗi niềm của con người trong xã hội. Cũng có người trước sau cứ nói đến cá nhân,nhưng cá nhân đó phải gắn với xã hội thì tác phẩm mới lớn được, mới có tầm được…Hơn nữa, một khi người viết, viết bằng cả cái tâm của mình thì tôi tin sẽ được xã hội chấp nhận….Cái khó là viết sao cho hay, cho có tầm tư tưởng. Bởi tôi quan niệm, trong văn học, không có chuyện đề tài cũ-mới”(18).
Tác phẩm của Dương Hướng đã được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi quan niệm văn chương của ông gần gũi với mối quan tâm của họ. Ông nói: “Nhiệm vụ cao cả của nhà văn là kiếm tìm cái đẹp và phải biết khai thác tới tận cùng để nhìn cho thấu cả nỗi khổ đau và niềm đam mê khát vọng trong tâm hồn con người” ( Bến không chồng_ Bến đỗ văn chương). "Khi viết tôi không quan tâm đến chuyện mới hay cũ, đối tượng độc giả già hay trẻ. Quan trọng là cái tâm của người cầm bút nói được tiếng nói của nhân dân, nỗi lòng của người cần lao"(18). Những đề tài Dương Hướng đề cập tới  không phải là những đề tài mới. Tuy nhiên, với sự sắc sảo, vốn sống phong phú cộng thêm lòng dũng cảm, Dương Hướng thuộc số nhà văn dám len lỏi vào những vấn đề tế nhị, nhạy cảm của xã hội thời hậu chiến cũng như thời đổi mới để đem đến cho độc giả cái nhìn chân thực, có chiều sâu. Sự ra đời của tiểu thuyết “Bến không chồng” ở thời điểm 1990 quả đã "góp được một cái nhìn mới mẻ về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến, kéo dài những mấy chục năm; với gánh nặng không phải là chỉ chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con người trong thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai "do lịch sử để lại" không đủ tầm và sức để vượt qua nó"(18). Đó là những hệ lụy từ Cải cách ruộng đất, từ phong trào Hợp tác hóa, là những nề nếp tâm lý, ý thức hủ lậu trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu. Tất cả đều có thể trở thành những nguyên cớ gây tai họa mà con người phải nhẫn nhịn chịu đựng trong một thời gian dài như một áp đặt của định mệnh. Chỉ đến giai đoạn chuyển giao giữa hai thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, con người mới chợt bừng tỉnh và nhận ra mình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân của lịch sử. Người đọc không khỏi lặng đi suy nghĩ khi đọc những câu văn: "Con cắn rơm, con cắn cỏ con lạy ông... Ông hãy cứu lấy thằng Tốn. Nếu không các ông nông dân con sẽ giết chết nó. Nó không có tội gì... Con xin hứa sẽ giáo dục thằng Tốn sau này nó trở thành kẻ nghèo khó..."(30,23). Một sự hài hước khủng khiếp! Như vậy, Dương Hướng đã góp phần khẳng định sức sống của khuynh hướng văn học “nhận thức lại”, làm cho tiểu thuyết đương đại đi chệch khỏi con đường minh họa hiện thực quen thuộc của văn học Việt Nam, chấm dứt thời kỳ người cầm bút chỉ biết lệ thuộc vào chủ nghĩa đề tài. Hơn thế nữa, nó gắn nối hai hiện thực chống Pháp và chống Mĩ, gắn nối thử thách của chiến tranh với thử thách của thời bình, gắn nối số phận cá nhân, gia đình, dòng họ với đất nước. Qua những tác phẩm của ông, người đọc khám phá thêm nhiều góc cạnh khác nhau của xã hội thời chiến cũng như thời hậu chiến. Người đọc dễ nhận ra trong tiểu thuyết của Dương Hướng không có nhiều sự đổi mới về nghệ thuật tự sự. Vẫn trung thành với lối viết truyền thống đầy mộc mạc nhưng lôi cuốn độc giả là nhờ ở cái nhìn hiện thực sắc sảo, ở cách xử lí hiện thực theo tinh thần nhân bản, lấy số phận cá nhân làm điểm soi chiếu. Dương Hướng không bảo thủ chỉ biết rập khuôn thi pháp truyền thống mà còn biết lưu ý chọn lựa, học hỏi cả xưa lẫn nay, biết rằng văn chương không chỉ bận tâm đến nội dung. Trong một bài phỏng vấn, ông tâm sự: "Hiện thực cuộc sống đầy sôi động ở mọi mặt. Nhưng điều quan trọng của nhà văn là phải trăn trở để viết thế nào chứ không phải viết cái gì. Quan trọng hơn lại vẫn là tác phẩm của anh nói được điều gì."(18). Phải chăng, vì lẽ đó mà những đóng góp của nhà văn cho nền văn học nước nhà không phải là những đột phá trong cách viết, mà ở sự mộc mạc, ở một ít chất hài, một ít chất triết lí…
3. Tiểu thuyết Dương Hướng – những thành công khiêm nhường mà chắc chắn.
          “Thời xa vắng” của Lê Lựu, “Thân phận tình yêu” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường…luôn luôn là những dẫn chứng đẹp, thuyết phục khi nhắc đến thành tựu của thể loại từ sau 1975. Và không thể không nhắc đến tiểu thuyết “Bến không chồng” của Dương Hướng - tác phẩm đoạt giải A của Hội nhà văn Việt Nam 1991. Những tiểu thuyết kể trên đã trở thành hiện tượng văn học nổi bật của văn xuôi thời đổi mới, với những đóng góp đáng ghi nhận về thể loại trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam hiện đại.  Như một người có duyên nợ với văn chương, ở tuổi ngũ tuần Dương Hướng mới bắt đầu sự nghiệp cầm bút nhưng chỉ sau hai năm và qua hai tác phẩm (“Gót son”; “Bến không chồng”) cái tên Dương Hướng đã trở nên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam. Đặc biệt cuốn tiểu thuyết “Bến không chồng” xuất bản năm 1990 đã đánh dấu bước thành công đầu tiên rất ấn tượng của nhà văn. Đến nay sau hơn hai mươi năm trong nghề, Dương Hướng đã xuất bản được hai tập truyện ngằn và ba cuốn tiểu thuyết: “Bến không chồng” (1990), “Trần gian người đời” (1991) và “Dưới chín tầng trời “ (2007).
Trong ba cuốn tiểu thuyết của nhà văn thì “Bến không chồng ” và  “Dưới chín tầng trời” có tiếng vang thực sự. “Bến không chồng” xuất bản năm 1990 thì năm sau (1991) nó được trao giải đồng hạng A với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường của Hội nhà văn Việt Nam và đến nay tác phẩm đã được tái bản 11 lần. Không những thế, nó còn được dựng thành phim, được dịch ra tiếng Ý, tiếng Pháp. Có độ dầy 300 trang, “Bến không chồng” lấy nhân vật trung tâm là những người phụ nữ ở nông thôn trong bối cảnh nông thôn Việt Nam (mà cụ thể cái làng Đông) vừa kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp và đang tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chiến tranh dù đã đi qua nhưng những dấu ấn, thương tích mà nó để lại cho con người còn tiếp tục kéo dài. Nó “chà nát” con người theo nhiều cách khác nhau, và phải gánh chịu nhiều nhất là những người phụ nữ. Đọc tác phẩm, người đọc sẽ không thể quên được những người phụ nữ như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc, Nhài... với ước mơ giản dị là được làm vợ, làm mẹ, có một tổ ấm để mà yêu thương, chăm sóc, nhưng những điều ngỡ như rất đỗi bình dị đó lại trở nên xa vời. Họ đều là những người phụ nữ "không chồng" (đúng như cái tên của tác phẩm). Với tiểu thuyết “Bến không chồng”, Dương Hướng đã đem đến cho bạn đọc một cái nhìn mới, một cảm xúc mới về lịch sử - một lịch sử quá nghiệt ngã đối với dân tộc thông qua những số phận bi kịch. Tác phẩm tuy không có cái sắc sảo, riết róng của “Mảnh đất lắm người nhiều ma”; không có cái chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh, da diết của “Nỗi buồn chiến tranh”... nhưng với sức nặng đề tài cùng phương thức thể hiện truyền thống, với cốt truyện mộc mạc và chân phương, ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên, đã khẳng định được giá trị trong lòng độc giả. Có thể thấy, bước vào nghiệp văn khi đã 40 tuổi, tuy "chậm mà chắc", Dương Hướng không làm người đọc ngạc nhiên và hứng thú bởi những cách tân mới lạ như nhiều nhà văn cùng thời, vẫn trung thành với lối viết truyền thống, mặc dù vậy, tác phẩm của ông vẫn cuốn hút bạn đọc. Sau “Bến không chồng” mười lăm năm sau, cuốn tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời” lại một lần nữa làm cho chúng ta bất ngờ. Tác phẩm đã lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức. Trước “Dưới chín tầng trời” nhà văn đã cho xuất bản cuốn tiểu thuyết khác “Bóng đêm mặt trời” (sau đổi tên thành “Trần gian người đời”) nhưng nó bị cái bóng của “Bến không chồng” che khuất. “Trần gian người đời” được tác giả và đồng nghiệp của ông rất tâm đắc. Vẫn là bối cảnh làng Đông với bao tập tục nặng nề, bao thù hận giữa các dòng tộc, những số phận lăn lóc, bị quăng quật xô đẩy đến tơi tả, đau đớn ê chề. Nó như một lời nhắn gửi của tác giả về cuốn tiểu thuyết mới lớn hơn, đồ sộ hơn – “Dưới chín tầng trời”. “Dưới chín tầng trời” là cuốn tiểu thuyết mang nhiều tâm huyết của nhà văn. Qua tiểu thuyết này một lần nữa ông khẳng định quan niệm sáng tác của mình: "Nhiệm vụ cao cả của nhà văn là tìm cái chân, cái thiện, cái mỹ và chống cái ác. Có viết về cái ác cũng để cho cái thiện trường tồn...". Ban đầu tác phẩm được nhà văn đặt tên là “Bóng quỷ”, sau lại đổi là “Cửu trùng đài”, rồi cuối cùng khi mang đi xuất bản, ông chọn cái tên nghe nhẹ nhàng hơn, giản dị hơn mà vẫn bao quát được tư tưởng chủ đề của tác phẩm – “Dưới chín tầng trời”. Khi được hỏi về tác phẩm, nhà văn tâm sự: "Dưới chín tầng trời chính là nới chúng ta đang sống, là hạnh phúc khổ đau, là niềm vui nỗi buồn. Con người bị dồn đẩy đến cùng đường sẽ có sức mạnh bung phá ghê gớm. Nó giống như chiếc lò xo, càng nén mạnh càng bật căng... Dưới chín tầng trời, con người ở tầng thấp nhất, nơi ấy có mọi niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc khổ đau của tôi, của tất cả chúng ta. Trời trong xanh ấm áp chúng ta hưởng, trời nổi cơn thịnh nộ gieo sóng gió dông bão, chúng ta chịu"(18). Đọc “Dưới chín tầng trời”, người đọc sẽ cảm nhận được bước đi của lịch sử qua từng số phận mỗi người dân làng Đoài: Gia đình Hoàng Kỳ, gia đình tỉ phú Đào Kinh, Đào Vương, Đào Thanh Măng, mẹ con bà Cháo... và những nhân vật có liên quan đến làng Đoài như: Trần Tăng, gia đình thương gia Đức Cường, Thu Cúc... Mặc dù trung thành với cái khung của tiểu thuyết truyền thống (trong thời kỳ mà các nhà tiểu thuyết hiện nay đang tìm mọi cách để cách tân kỹ thuật viết) nhưng “Dưới chín tầng trời” vẫn vượt lên nhiều tiểu thuyết khác và khẳng định vị trí của mình về cả quy mô lẫn tầm vóc vấn đề được phản ánh.“ Dưới chín tầng trời, đó là toàn cảnh nhân gian; và với cái tên sách đó, Dương Hướng dẫn dắt người đọc đi gần trọn một thế kỷ của lịch sử dân tộc, với những chuyển động, những biến đổi, những bước ngoặt (…), có thể nói là đã lâu lắm, văn xuôi mới có được một tác phẩm có sức chứa lớn đến thế”(18). Dù viết không nhiều, nhưng với “Bến không chồng”, “Trần gian người đời”, “Dưới chín tầng trời”, Dương Hướng cũng đã góp phần làm phong phú, bề thế diện mạo văn học nước nhà. Từ “Bến không chồng” (1990) đến “Dưới chín tầng trời” (2007), chặng đường gần 20 năm, Dương Hướng thật sự đã có những tìm tòi, thể nghiệm đáng trân trọng.

CHƯƠNG HAI:  Nội dung tiểu thuyết Dương Hướng.
Dương Hướng viết không nhiều. Trong những đề tài ông tâm huyết, thành công hơn cả là về người lính và nông thôn như trong “Bến không chồng”, “Trần gian người đời”. “Dưới chín tầng trời” đặc biệt hơn bởi nó là cuốn tiểu thuyết có dung lượng lớn mang tính sử thi với bao sự kiện và biến cố, với rất nhiều vấn đề nhạy cảm mang ý nghĩa dự báo. Luận văn của chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu hai nội dung cơ bản nhất trong các tiểu thuyết của ông, đó là Bức tranh nông thôn và Những bi kịch cá nhân.
1. Bức tranh nông thôn.
Quê hương là nguồn dưỡng chất tinh thần có ý nghĩa thực sự quan trọng đối với ngòi bút Dương Hướng. Nhà văn chịu ơn quê hương nhiều lắm: “
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, tôi nhận ra người nông dân quê tôi thật tuyệt vời. Tôi muốn dành cả cuộc đời sáng tác của mình cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình ở làng Đông. Cho dù đời sống tinh thần, vật chất của người dân quê tôi còn nghèo khó, lạc hậu, nhưng tấm lòng thủy chung và sự hi sinh chịu đựng của họ thật phi thường. Cho dù tôi có đi chân trời góc bể nào, khi về đến đầu làng là tôi xúc động, cảm thấy lòng mình ấm lại. Tình quê, tình người và cả sự tươi tốt non tơ kì diệu của cỏ cây hoa lá, cả sự lam lũ lấm lem của người nông dân trên đồng đất khoai lúa rơm rạ quê nhà vẫn luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo cho tôi. Và quan trọng hơn cả bởi tình đời, tình người, tình cha mẹ, tình anh em ruột thịt, tình bạn bè và cả sự linh thiêng của mùi khói hương trên bàn thờ tổ tiên, gia tộc nhà mình…”  (18).
Nông thôn là đề tài không mới nếu không muốn nói đã có quá nhiều cây bút đã thành công xuất sắc. Nhưng với một tình yêu cháy bỏng dành cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình, Dương Hướng thực sự làm phong phú hơn mảng văn học viết về nông thôn với một cái nhìn rất riêng. Mỗi làng quê Việt Nam bên cạnh nét chung vẫn có những nét khu biệt về văn hóa, phong tục, lối sống. Và đó chính là nguồn cảm hứng bất tận để Dương Hướng được bày tỏ tình yêu đối với quê hương mình. Nông thôn trong tiểu thuyết của ông không nổi lên sự đói nghèo nheo nhóc, xơ xác tiêu điều nhưng là một không gian nhiều bão tố, không bình yên, liên tục xáo động, đối lập hẳn với thiên nhiên tươi đẹp hiền hòa.  
1.1 Bức tranh thiên nhiên làng quê.
 Dương Hướng dành một tình cảm thương mến nồng hậu đặc biệt cho làng quê. Hãy xem nhà văn tả cảnh làng Đông yêu quý của mình: “Làng Đông có nhiều cái nhất: Đình làng Đông to nhất; cây quéo làng Đông cao nhất; Cầu đá làng Đông đẹp nhất; nước sông cũng mát nhất…Đất làng Đông nằm trên mình con rồng. Con rồng đó chính là dòng sông Đình bắt nguồn từ cống Linh chảy qua làng Đông uốn lượn như một con rồng. Nước sông như dòng sữa mẹ làm tươi tốt đất và người làng Đông”(30,10). “Làng Đông là thế giới huyền diệu , lũy tre làng xanh mượt, những thân cau cao vút, dòng sông đình lung linh in bóng cây quéo và nhịp cầu Đá Bạc”(30,14).” Buổi sáng mai, cánh đồng làng Đoài đã rực nắng vàng. Dòng sông Đình mênh mang bao quanh đồng lúa trải dài mênh mông bất tận”(29,450).”Dòng sông cái mênh mang khói sương bảng lảng, văng vẳng tiếng sáo diều. Trên bờ đê thấp thoáng bóng dáng những thiên thần đang cưỡi trâu. Đồng cỏ xanh ngắt. Trên bến hai chú ngựa đứng trước cỗ xe nôn nóng gõ móng công cốc trên mặt đường lát đá…”(31,80).” Dòng sông cái thoáng hồng lên trong hoàng hôn. Bến đá vắng lặng mênh mông …Làng Nguyệt Hạ chìm trong khói sương. Con cừ giữa như thu nhỏ lại chỉ còn một vệt sáng mờ vắt qua cánh đồng lúa đang thì con gái lao xao trong gió”(31,126). Có những trang văn viết về làng quê thực sự làm người đọc bất ngờ như đứng trước một bức tranh thủy mặc. Thiên nhiên thôn dã trong con mắt nhà văn bao giờ cũng thật đẹp, hiền hòa dẫu vẫn là cây đa, bến nước, mái đình quen thuộc từ ngàn đời nay đã ăn sâu vào tâm thức mọi tâm hồn Việt. Bối cảnh nông thôn trong tất cả những sáng tác của Dương Hướng đều lấy từ nguyên mẫu làng Đông, Thụy Yên, Thái Thụy, Thái Bình quê ông. Và những bức tranh thiên nhiên đó bao giờ cũng được nhà văn đặt trong một bầu không khí huyền thoại, gắn với những huyền thoại, những câu chuyện thấm đẫm vẻ kì ảo. Đó là sự tích “rốn mắt tiên” trong “Bến không chồng”: “Ngày xửa ngày xưa, hồi ấy cái hồ nước ở giữa cánh đồng còn tanh hôi như một vũng trâu đằm. Nơi của lau sậy um tùm, cá rúc, cuốc lủi hôi xì, đỉa bơi cung quăng, ếch nhảy chòm chõm. Dạo ấy có cô gái tên Ngần đẹp nhất làng Đông. Cặp mắt cô Ngần tròn xoe lóng lánh như hạt nhãn mới bóc. Da cô Ngần trắng mịn, tóc dài và mượt như tơ. Vào tuổi trăng tròn, cô Ngần bị bố mẹ ép gả cho người mình không yêu. Đêm tân hôn cô Ngần trốn ra hồ nước giữa đồng tự vẫn. Thế là cỏ lau bỗng lụi tàn, cú, cuốc cũng lủi sạch. Đỉa cũng mất tăm. Nước hồ trở nên trong vắt quanh năm. Từ đó đàn bà con gái làng Đông có nỗi oan khuất đều trốn ra hồ nước tắm để được giải oan”(30,11); chuyện gò ông Đổng: “Ngày xửa ngày xưa một người trai làng Đông đi đánh giặc mười năm chiến thắng trở về vẻ oai phong lẫm liệt mắt sắc mày ngài kiếm cung thao lược. Người chiến binh vừa về tới cánh đồng làng nghe tin người vợ ở nhà bạc tình liền nhảy phốc lên gò đất cạnh đấy hét lên một tiếng vang trời, máu từ miệng hộc ra chết tươi. Từ đó người làng Đông đi qua đều ném lên đấy một nắm đất để tưởng niệm người chiến binh dũng cảm không chết nơi trận mạc mà lại chết vì tình. Ngôi mộ mỗi ngày một to cao lên mãi. Người ta bảo trai làng Đông có chí khí khác người vì được mang dòng máu của người chiến binh năm xưa” vv…(30,12).
Những huyền thoại gắn với các địa danh chở nặng đời sống tâm linh: “chỉ có mắt tiên mới trong như thế. Chỉ có mắt tiên mới nhìn thấu mọi sự và nước mắt là nỗi lòng của người phụ nữ”. Ngòi bút Dương Hướng giúp ta cảm nhận được thấm thía một cái gì như là linh hồn đất nước trong những phong cảnh thân thuộc, những mái đình cây đa, dòng sông bến nước, câu hò điệu hát, những gương mặt con người…
 Nhưng trong bức tranh thiên nhiên làng quê của Dương Hướng, người đọc còn nhận ra một ám ảnh nghệ thuật, đó là hình ảnh bến nước. Trong “Bến không chồng” : “Bến sông ở đây có vẻ quyến rũ lạ. Mùa đông con nước sông cạn phơi ra dải cát trắng phau lấp loá dưới nắng. Nước sông trong veo lặng lẽ trôi, mùa lũ nước sông dềnh lên xăm xắp đôi bờ cỏ cây xanh tốt”, hình ảnh bến sông gắn với không gian làng quê, gắn với sinh hoạt con người; là nơi hò hẹn, nhân chứng cho bao cuộc tình lãng mạn, nồng nàn của người làng Đông; là nơi ra đi và cũng là nơi trở về của bao số phận.  Bến sông quê cũng là nơi chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử; bao khao khát, chờ đợi và những bi kịch của con người. Bến sông trở đi trở lại như một ám ảnh trong tâm thức con người. Hạnh -  nhân vật chính của tiểu thuyết - lớn lên tại bến sông này, có một tình yêu đẹp cũng tại nơi đây. Và trong lúc  mòn mỏi vì chờ đợi, vì đau khổ, cô rơi vào trạng thái mê sảng, hình ảnh bến sông vẫn trở lại “mắt cô tiên hiện ra trong leo lẻo trước mặt Hạnh”. Cái “Bến không chồng” là linh hồn của người làng Đông, đặc biệt, nó gắn chặt với số phận những người phụ nữ như mẹ Hạnh, Hạnh, Dâu, Thắm…họ lặng thầm như bến nước, nhẫn nhịn, suốt một đời hi sinh lặng lẽ mà không bao giờ được bù đắp.
1.2 . Những biến thiên lịch sử.
Như mọi làng quê Việt Nam khác, làng Đông trong tiểu thuyết của Dương Hướng là mảnh đất ghi dấu bao cuộc đời, mảnh đất giàu truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán. Những người dân nơi đây thực sự thuần hậu, giàu tình cảm, chịu thương chịu khó. Từ bao đời, văn hóa làng xã đã ăn sâu vào máu thịt họ. Mảnh đất làng đã nuôi dưỡng họ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đặc biệt là những phong tục mang nét đẹp văn hóa được nhà văn miêu tả với một cái nhìn gần gũi. Đó là hội đình: “Rằm tháng tám năm nào Hoàng Kì Nam và lũ trẻ cũng ra đường ngóng ông nội Hoàng Kì Bắc và bố Hoàng Kì Trung về mở hội đình Đoài. Đêm hội đình Đoài, Nam và lũ trẻ được xem thắp đèn kéo quân, thả đèn giời và nghe hát chầu văn. Ngôi đình Đoài là linh hồn của cả dân làng Đoài từ ngàn xưa.”(29,46). Tâm hồn mỗi người dân quê luôn được tắm đẫm bởi những sinh hoạt bình dị, hồn nhiên nhưng cũng đầy lãng mạn. Sau giờ phút lao động cực nhọc, thả hồn theo những ngọn đèn giời như gửi lên cao xanh những mong ước tốt đẹp, được ru mình theo những làn điệu chầu văn…, dường như họ không sống cái hiện tại nhọc nhằn nữa mà sống với nhiều cuộc đời, với cả bề sâu và tầm cao mạch nguồn văn hóa cha ông để lại. Chẳng phải đó là điều ý nghĩa nhất và sẽ là hành trang trong suốt cuộc đời mỗi người sao?
Làng quê trong tiểu thuyết của Dương Hướng còn mang trong nó bao điều linh thiêng, bao tục lệ tốt đẹp. Đó là tục trao vòng, tục chơi diều vừa nghiêm cẩn vừa phóng túng:
“Tục lệ trao vòng của người làng Nguyệt Hạ cũng xuất phát từ ý tưởng tốt đẹp của nàng công chúa Nguyệt Cầm. Chiếc vòng gia truyền do người phụ nữ giữ từ đêm tân hôn tới khi nào con gái trưởng thành tới tuổi 18 thì trao lại cho con gái. Người con gái hoàn toàn được tự do lựa chọn người yêu để trao vòng…Chiếc vòng được lưu truyền từ đời này sang đời khác….Nó có giá trị bằng phẩm giá của người phụ nữ…Chính vì có tục lệ “trao vòng”, người làng Nguyệt Hạ luôn coi trọng danh dự, đàn ông cốt cách, đàn bà thủy chung. Đặc biệt người làng Nguyệt Hạ ham chơi diều. Cánh diều, tiếng sáo diều là biểu tượng của sự no ấm thanh bình của làng Nguyệt Hạ…Người làng Nguyệt Hạ có lời thề không bao giờ làm điều ác. Nếu kẻ nào làm điều ác không tự trừng trị thì trời sai sét đánh vỡ tàu vỡ bè hoặc lũ cuốn trôi mà chết”(31,30).
Tục lệ trao vòng tự bao đời là một nét đẹp trong văn hóa làng Nguyệt Hạ. Đặc biệt là ý nghĩa nhân sinh tích cực và tiến bộ của nó “người con gái hoàn toàn được tự do lựa chọn người yêu để trao vòng” .
Có những phong tục theo thời gian sẽ mất đi, như tục Trao vòng, nhưng cũng có những thứ còn tồn tại mãi như Chơi cờ người:
“Trên sân cờ là những chàng trai cô gái mười bốn, mười lăm tuổi đang đứng làm quân. Con trai làm quân trắng đội ô trắng, trong mặc áo đen, ngoài mặc áo trắng đội khăn xếp. Con gái đứng làm quân đen mặc áo chùng nâu, quần đen, đội khăn nhiễu, chân đi miệt đỏ…Trong đình lão Kẹo mặc quần áo chèo đỏ thắm, đeo râu trắng phớ dài tới ngực, tay chống gậy hát_ í a í a_Làng này có giặc _í a í a_ ta truyền lại cho con cháu lời ngọc của tổ tiên_í a í a”(31,63).
Chơi cờ người được coi là nét văn hóa rất đặc trưng ở nhiều vùng quê  Việt Nam. Đó không chỉ là nơi giao lưu, mà còn là nơi thể hiện chất trí tuệ tài hoa của người dân quê. Tất cả diễn ra nơi đình làng “vòm mái mênh mông với những hàng cột lim tròn, vững chắc mà kiên cố. Trên các cột cái đều treo hoành phi câu đối sơn son thếp vàng lộng lẫy. Trên các bửng cốn rường trụ, câu đầu đều được trạm trổ theo lối cổ đủ mọi hình thù kì dị…Mái đình cong cong, trên nóc, hai con rồng nằm uốn mình châu đầu vào nhau kiêu hãnh vênh bộ râu cong tít, mắt tròn xoe lấp lánh màu nhũ”(31,64). Dường như ai cũng được sống trong không khí lễ hội, được nhập thân hết mình vào những trò chơi.
Làng quê đó còn có tục lệ rất đẹp:
“Tục lệ cổ xưa của làng, trai gái lấy vợ lấy chồng đều phải mua 10 viên đá tảng lát đường. Các cụ muốn rằng con cái làng Nguyệt Hạ phải hơn hẳn các làng khác. Đất làng Nguyệt Hạ là đất của con vua cháu chúa, đường làng Nguyệt Hạ phải lát đá xanh chứ không thèm lát gạch đỏ như các làng khác. Bởi vậy làng Nguyệt Hạ mới có một bến đá bên sông cái”(31,80).
Phong tục đó là niềm tự hào riêng của người làng Nguyệt Hạ. Hạnh phúc riêng của mỗi cặp vợ chồng đều được ghi dấu không chỉ qua kí ức ngắn ngủi của đời người mà còn được truyền từ đời này sang đời khác qua những viên đá lát đường, vừa vững bền muôn thưở, vừa hòa đồng thân thiết.
Bức tranh làng quê trong tiểu thuyết của Dương Hướng luôn ngân lên tiếng sáo diều thanh bình yên ả. Những người mê chơi diều là những người rất kiên nhẫn. Không kể gì lúc họ ngồi gò đôi cánh diều lấy đều, lấy nong gió, không kể gì lúc họ cặm cụi ngâm cậy để phất diều, mà ngay việc vót dây diều cũng lắm công phu. Dây tre nhẹ lại đẹp, bao giờ cũng được các tay chơi diều vuốt qua một lượt nến cho bóng. Nhưng điều kì công và cũng tốn kém nhất của thú chơi diều là khoét sáo. Những người sành chơi diều chỉ cần nghe tiếng sáo đã biết đó là tiếng sáo diều ai. Ông Kình “Thường phân tích cho con cháu hiểu rõ mọi âm thanh của tiếng sáo diều các loại. Diều nhỏ, sáo nhỏ, diều lớn, sáo lớn. Sáo “ ro ro” nghe thánh thót trong những ngày gió nhẹ. Sáo “ bi bi” nghe trầm vang như tiếng cồng…Cánh diều được phất bằng lớp vải màn ở giữa hai lớp giấy bản, bên ngoài nhuộm màu nâu tím lịm. Lão khoét bộ sáo bi bi to bằng bắp đùi. Nhìn bộ sáo lục thanh của lão là cả một công trình điêu khắc tài ba…muốn đạt chức vua diều phải nắm rõ mấy yếu tố cơ bản: trọng lượng của diều và dây phải nhẹ, không thấm nước. Lão làm miệng sáo bằng gỗ vàng tâm vừa nhẹ vừa dai, tiếng lại ấm. Ống sáo lão tước hết cật cho nhẹ. Dây diều lão vót bằng tre như chiếc đũa, vừa bền vừa không thấm nước. Lão Kình còn có tài nghe tiếng sáo diều đoán được thời tiết, đoán được hướng gió thay đổi. Cái thú của nghệ thuật chơi diều là như vậy”( 31,94).
Dương Hướng am tường đến ngọn nguồn những thú chơi, những phong tục làng quê. Chắc chắn phải có con mắt quan sát rất tinh tường, ham hiểu biết, nhất là một tình yêu thật sâu sắc với quê hương mới có được những trang viết tường tận, tỉ mỉ và sinh động đến thế. Chất “nông dân” đem lại cho nhà văn sự hồn hậu trong cách kể, cách tả, là một cái duyên không phải ai cũng có.
Làng quê với những người nông dân hồn hậu, chất phác, giàu tình cảm, nhưng cũng chính những con người đó, bởi sống trong nhiều hủ tục thâm căn cố đế từ ngàn kiếp trước để lại, đã vô tình gây đau khổ cho nhau. Sự ấu trĩ trong nhận thức, tâm lí bầy đàn, sự trì trệ bảo thủ và tập tục làng xã đã khiến những người nông dân vốn thuần hậu, nghĩa tình có lúc trở nên độc ác, nhẫn tâm trước nỗi đau khổ của đồng loại.
Viết về những phong tục, tập tục làng quê, có lẽ không ai vượt qua được Tô Hoài, Kim Lân…Tiểu thuyết của Dương Hướng không thiên về phong tục, nhưng rõ ràng ông nhìn ra số phận của rất nhiêu người nông dân đã bị chi phối, đè nặng bởi những hủ tục và tập tục. Hóa ra làng quê nhỏ bé không hề bình yên. Ở đó cuộc sống luôn bị khuấy đảo, sôi lên vì những quan hệ, những mâu thuẫn, những định kiến làm điêu đứng bao người. Đọc “Bến không chồng” mới thấy hết mối thù giữa hai dòng họ Vũ và Nguyễn đã làm cho con đường đi đến hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa gian nan biết chừng nào. Vì lời nguyền quyết liệt “Nước sông đình ngàn năm không cạn. Cầu đá bạc vạn kiếp trơ trơ. Bến tình còn đẹp như mơ. Mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi”, Hạnh lấy chồng không được về nhà chồng ở bởi cả họ Nguyễn coi việc đó chẳng khác nào “rước voi về giày mả tổ”. Và có lẽ chẳng có câu chuyện tình nào từ cổ chí kim trên thế giới miêu tả đêm tân hôn đặc biệt như đêm tân hôn của vợ chồng Hạnh: “Đám cưới tan. Làng Đông chợt lặng đi. Cô dâu chú rể lại dắt nhau ra bờ sông” . Hạnh và Nghĩa quyết tâm bước qua lời nguyền để đến với nhau, chấp nhận làm hai kẻ bất hiếu. Cho nên, đám cưới của họ chỉ có thanh niên nam nữ trong làng, các cụ không ai có mặt. Khổ nhất cho đôi bạn trẻ là cưới nhau rồi, nhà cửa có nhưng không được về ở. Vậy là đêm tân hôn diễn ra nơi bờ sông. Sự lãng mạn, sự bay bổng của tuổi trẻ làm hai con người vui ngây ngất trước hạnh phúc của mình, nhưng người đọc thì chợt dâng lên cảm giác xót xa, ái ngại. Mừng cho hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa, nhưng cũng lo cho cuộc sống mới của đôi bạn trẻ. Những ngày Hạnh sống bên nhà chồng là những ngày cô chịu sự dò xét, soi mói của cả dòng  họ. Cũng bởi lời nguyền đó mà :“Bao nhiêu năm nay thanh niên làng cứ phải mò sang làng khác lấy vợ. Gái làng Đông ta xưa nay nết na mà cứ phải khăn gói đi làm dâu thiên hạ. Cả làng này sao không thấy gương nhà chị Toan, chị Sang đi lấy chồng làng Hạ -  người bị chồng đánh phát điên, người bị mẹ chồng nay đuổi mai xua phải bỏ về làng ở” (30,83). Hạnh, sau bao khó khăn mới được bước chân về ở nhà chồng, cũng vẫn bị lời nguyền đeo đẳng: “Vợ chồng thằng Nghĩa đã phản lại lời nguyền của cụ Tổ…Nó rước kẻ thù về làm vợ. Nó làm điều ác, gia đình nó sẽ tuyệt tự. Con Hạnh sẽ chẳng bao giờ có con”(30,231). Hạnh không có lỗi nhưng hàng ngày cô lại phải sống trong mặc cảm tội lỗi với dòng họ tổ tiên nhà chồng vì không sinh cho Nghĩa mụn con nối dõi. Với Hạnh, thiếu thốn, hi sinh mất mát có lẽ vẫn dễ chịu hơn phải chịu đựng lời nguyền độc ác đeo đẳng: “Hạnh cảm nhận rõ sẽ có tai họa dội xuống đầu Hạnh. Từ ngày Hạnh được ở ngôi nhà mới này, dân làng Đông và người trong họ Nguyễn nhìn Hạnh không còn đằm thắm như xưa. Hạnh khiếp sợ những ánh mắt lạnh lùng và những lời dị nghị “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”. Cứ nghĩ đến những lời rủa cay độc ấy Hạnh lại thấy rã rời và chìm nghỉm trong ảo ảnh ”(30,233). Hạnh đã phải cay đắng thốt lên với chồng: “Lời nguyền của cả họ nhà anh vẫn còn đó, nó ngấm sâu vào da thịt ngàn đời không bao giờ rửa sạch” (30, 273). Rất nhiều bi kịch gia đình đã xảy ra chỉ vì không có con nối dõi, và người thiệt thòi nhất là những người phụ nữ. Bản thân họ không được quyền làm mẹ cũng đã là một nỗi đau, họ không được thông cảm mà luôn phải hứng chịu con mắt ghẻ lạnh, khinh thị của người đời. Mang “tội bất hiếu ” với dòng họ nhà chồng thì kinh khủng biết nhường nào. Vì thế, cô Dâu trong một cuộc họp dòng họ đã phẫn nộ: “Cái họ nhà mình rõ lạc hậu, suốt đời toàn làm khổ nhau bằng những chuyện đâu đâu”(30,219). Quả là “người ta yêu nhau hoặc ghét nhau nhưng đều làm khổ nhau”( Nam Cao). Cũng vì ý thức tộc họ mù quáng mà lão Xung đã làm những hành động độc ác như đốt từ đường, ăn cắp tiền, xúi giục người trong họ tẩy chay vợ chồng Hạnh…để rồi lương tâm day dứt sinh ra dở điên, dở dại. Ông Khiêm trưởng tộc chết trong nỗi đau xót, kiêu hãnh mà cô đơn vì không chỉ họ tộc, làng xóm mà cả đến vợ con ông cũng không hiểu được những suy nghĩ phức tạp giằng xé ông.
Vạn - một chiến sĩ Điện Biên, một thương binh về làng với niềm tự hào về quá khứ anh hùng và phẩm chất Cách mạng của mình, lại chính là nạn nhân của những quan niệm, những nhận thức cứng nhắc, tự cầm tù mình trong cuộc sống khổ hạnh mà anh cho là như thế mới xứng với phận vị mình. Vạn sống với niềm kiêu hãnh của một người lính từ chiến trường trở về. Nhưng quan trọng là Vạn đã không dám vượt qua những e ngại, những định kiến và dư luận, tự chôn sâu mối tình với chị Nhân -  vợ của người đồng đội đã hi sinh. Cuộc đời với Vạn đã trở thành bi kịch bởi một phần do anh luôn nhìn thấy hào quang của một anh chiến sĩ Điện Biên, một người hùng, một phần anh cũng không dám bước qua sự thù hằn của hai dòng họ để đến với hạnh phúc mà đáng ra anh được hưởng. Cái chết của Vạn giải thoát cho anh khỏi cuộc đời bất hạnh nhưng để lại cho người đọc bao xót xa. Chiến tranh và những định kiến đã khiến Vạn trở thành một con người vừa vô thần, vừa vô cảm. Những số phận như Hạnh, Vạn…được đặt trên cái nền làng Đông rất điển hình. Một làng quê bé nhỏ, mang nhiều nét truyền thống và cũng là nơi tích tụ những xung đột xã hội dữ dội, những thăng trầm, biến thiên không thể nói là không đau xót. Cái không khí o bế, ngột ngạt và căng thẳng của những tập quán xấu đã làm quằn quại lòng người không ít. Ở đó con người phải sống trong một môi trường tinh thần lẫn lộn bao nhiêu niềm tin thiêng liêng với những mê muội ngu tín. Trong những tấn bi kịch của các nhân vật đều có một phần nguyên nhân từ sự chấp nhận tự nguyện hay cam chịu của họ trước những định kiến và ràng buộc nghiệt ngã của ý thức dòng họ.
Trong “Trần gian người đời” đó là cảnh thù hằn giữa hai dòng họ Đinh và  Vũ chỉ vì dòng họ Đinh đào ao chống hạn bị coi là “ triệt long mạch” nhà họ Vũ. Thế mà cảnh đổ máu xảy ra: “Họ mê muội hung dữ xả vào chân nhau, bổ cả vào đầu nhau. Mặc lúa má khô héo sâu bệnh, mặc trẻ con ốm đau, suốt ba tháng trời, dân làng Nguyệt Hạ mất ăn mất ngủ vì việc đào ao đào cử, để rồi cuối cùng dân làng phải chứng kiến một cảnh tượng rùng rợn. Một cơn ác mộng xảy ra đối với ngôi đình làng Nguyệt Hạ, đầu của Vũ Bách Thiên rời khỏi cổ mà mắt vẫn mở trừng trừng nằm lăn lóc dưới chân cột. Lưỡi kiếm sáng loáng băm vào cây cột đình sâu ba tấc. Còn Đinh Tử  Túc nằm giữa đình, bụng phơi ra một đống bùng nhùng gan ruột”(31,32). Vì những cách nghĩ rất ấu trĩ và hồ đồ, con người đôi khi hành động mê muội, làm khổ nhau, thậm chí giết nhau. Bản thân mỗi người nông dân cũng đau đớn khổ sở khi luôn phải nuôi dưỡng trong mình, cho con cháu mình mối thù như thế nhưng họ lại không thể và không cho phép mình nguôi quên. Quá khứ là một cái gì đó quá nặng nề, từ đời này qua đời khác, người ta không để cho nó ngủ yên mà liên tục đánh thức nó như là một thước đo lòng trung thành với dòng họ. Lão Kình mang một nỗi hận ghê gớm đối với người đã giết con trai mình, lão ngày đêm âm mưu trả thù cho con bất chấp phải dùng những thủ đoạn đê tiện. Lão dùng số tiền ki cóp cả đời dụ dỗ Quất ăn cắp chiếc vòng hòng chia rẽ tình yêu của Nga và Đô, sẵn sàng đổi trắng thay đen, cốt bắt được con gái kẻ thù về làm dâu nhà mình để hành hạ: “Chúng phải nhớ, phải nhớ đời hiểu chưa? Chúng phải nhớ và khắc ghi vào lòng về cái chết oan uổng của bố chúng mày”. Và đây những lời lấy khẩu cung lão Kình hàng ngày tra tấn đứa cháu sau bữa cơm chiều, cốt để khắc ghi vào tâm não nó mối thù sinh tử:
“- Bức! - lão Kình cất giọng rõ oai.
-Dạ!
-Ai là người đẻ ra bố mày?
-Bẩm ông ạ. Ông là người đẻ ra bố con.
-Ai là người đẻ ra mày?
-Dạ bẩm ông bố mẹ con ạ.
- Bố mày là người thế nào?
-Bẩm ông bố con là người vô cùng tốt bụng ạ.
-Thế bố mày đâu rồi?
- Bẩm bố con chết rồi ạ.
-Tại sao bố mày lại chết?
-Bẩm ông bố con bị treo cổ chết ạ.
-Đứa nào treo cổ bố mày?
- Bẩm ông tay Lưỡng, tay Học, tay Bất.
-Tay Lưỡng là tay nào?
-Bẩm ông là bố con Nga.
-Con Nga là ai?
- Bẩm ông là vợ con.
………………………….
-Ai trị tội nó?
-Bẩm ông, con ạ.
                                             ( 31,154).
Những câu hỏi lặp đi, lặp lại, ngày qua ngày đã cướp đi sự bình yên, cảm giác hạnh phúc không chỉ của đứa cháu mà còn biến không khí gia đình lão thành địa ngục. Việc Bức yêu Nga bị cả nhà lão coi là việc táng tận lương tâm, bất trung bất hiếu. Nhìn thấy cảnh Bức tình cảm với vợ, anh trai Bức đã đánh Bức và rít lên: “Mày là thằng nhu nhược. Mày đã quên mất lời ông dạy…Lần này tao chỉ cảnh cáo, lần sau vi phạm tao đâm thủng bụng”.
Dương Hướng mang đến cho người đọc cái nhìn không hề đơn giản về người nông dân. Họ có thể chỉ là những người lao động an phận quanh năm bới đất lật cỏ nhọc nhằn kiếm miếng ăn, không gây thù chuốc oán với ai, nhưng khi khảo sát họ trong quan hệ dòng họ sẽ thấy ở họ tiềm ẩn một sức mạnh tinh thần khủng khiếp. Thế giới nội tâm của họ cũng đầy phức tạp, luôn tồn tại những nỗi dằn vặt, vò xé đau đớn. Bức yêu vợ nhưng không dám trái lệnh ông. Vì thế con người ngỡ như thô lậu cục cằn đó có lúc Bức đã nức nở khóc. Bức khóc cho nỗi làm người, khóc vì không sao thoát khỏi tấn bi kịch giằng xé đấu tranh giữa tình yêu và bổn phận, giữa lương tâm và nghĩa vụ: “Ông tôi không bao giờ tha thứ….Tôi chỉ làm việc theo kế hoạch của gia đình để thực hiện được ý đồ lớn. Nhưng bây giờ thì tôi đã phản bội lại ông bà, bố mẹ và các anh tôi. Tôi…tôi đã yêu mình” (31,142). Người nông dân đã sống trong bao nhọc nhằn cơm áo lại còn bị vây bủa và tự cầm tù trong bao tăm tối lầm lạc. Khi họ đã mang một mối hận nào đó thì nghĩa là họ sẽ nô lệ cho nó suốt đời, hơn thế họ còn truyền lại cho con cháu, giam cầm con cháu trong xiềng xích vô hình. Bức xin vợ tha thứ cho những người thân của mình vì đã hành hạ cô, đó chính là lời tự thú sâu sắc: “Thu Nga, hãy tha thứ cho họ. Định kiến và sự thù hận đã ăn sâu vào máu luôn hủy hoại cuộc sống vốn đã khốn cùng của họ. Lòng tốt và sự chân thành của họ chính là lòng tin. Họ đã tin và tôn thờ điều gì họ sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng mình để giữ lòng tin ấy. Dẫu họ có phải ăn đói mặc rách quanh năm nhưng đến ngày giỗ bố phải có manh quần tấm áo mới ngồi trước mâm cỗ đầy ắp xôi thịt. Họ dám nhẩy vào lửa để cứu người, dám xoay trần ra, vật lộn với dông bão để cứu lúa, họ dám xả thân nơi bom đạn tiêu diệt kẻ thù…miễn là đừng lừa dối họ. Họ là thế đấy”(31,216).
Dương Hướng đã bộc lộ qua lời nhân vật một tâm lí đầy trắc ẩn, bao dung. Ông không chỉ một chiều phê phán định kiến mù lòa, sự tăm tối mông muội của người nông dân mà còn nhận ra và rất trân trọng bản chất thuần phác, trọng tín nghĩa của họ. “Miễn là đừng lừa dối họ” -  nghĩa là họ rất có ý thức về nhân phẩm, coi trọng sự thành thực.
Đâu chỉ khi sống người ta mới làm khổ nhau. Ngay cả đến lúc chết, người ta vẫn không thôi hành hạ nhau. Trong tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, người đọc không thể quên được cái chết thê thảm của mẹ Đào Kinh. Người Việt luôn coi “nghĩa tử là nghĩa tận”, khi đang sống họ đã chuẩn bị cho cái chết rồi. Nhưng người đàn bà đáng thương bi bệnh hủi chết đi là niềm kinh hoàng đối với cả dân làng. Người ta xua đuổi, xa lánh, kì thị con người khi cần được cưu mang và cảm thông nhất chỉ vì thiếu hiểu biết và quá sợ hãi.
 Nhà văn không ngần ngại đưa lên trang viết những thói tật, những cái nhem nhuốc trong đời sống sinh hoạt của những người dân thôn quê. Dương Hướng không bêu xấu họ mà miêu tả, phân tích kĩ lưỡng thực trạng để tìm nguyên nhân chạy chữa những bi kịch không đáng có. Qua các trang văn của ông, người đọc cảm nhận được những nỗi đau đớn xót xa cho các số phận nhỏ bé khi phải chống chọi với cái ác, cái dung tục đang tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau.
Dương Hướng cũng đặt người nông dân trước những biến thiên của lịch sử để cho người đọc cái nhìn toàn diện hơn vai trò nhào nặn con người của hoàn cảnh sống. Đó là công cuộc cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông thôn. Cải cách ruộng đất được coi là một thắng lợi vĩ đại của công cuộc Cách mạng dân tộc - dân chủ. Ở nông thôn nếu nhìn từ góc độ văn hóa, nhân bản thì đó là những sai lầm ấu trĩ do một số kẻ thừa hành giáo điều, duy ý chí đã gây nên chấn thương của xã hội Việt Nam. Hàng ngàn năm, người nông dân là tầng lớp bị trị, bị bóc lột, bị ức hiếp. Cách mạng đã đổi đời cho họ, cho họ quyền công dân, và một “đặc ân’ của chính quyền mới thông qua công cuộc cải cách ruộng đất cho phép người nông dân được đấu tố địa chủ để đòi lại ruộng đất và quyền bình đẳng. Cải cách ruộng đất đã giúp đa số nông dân thoát khỏi áp bức của giai cấp địa chủ bóc lột. Nhưng với những cá nhân cụ thể cuộc cải cách ruộng đất đã gây nên bi kịch đau xót, làm tan nát nhiều giá trị văn hóa làng xã. Cả 3 cuốn tiểu thuyết của Dương Hướng đều đề cập tới giai đoạn lịch sử đặc biệt này của dân tộc. “Dưới chín tầng trời”, “Trần gian người đời”, “Bến không chồng” đã dựng lại khá chân thực và sinh động không khí của công cuộc cải cách. Đây là cảnh đấu tố giữa hai cha con:
_ “Tên địa chủ già kia, mày có biết ai đang đứng trước mặt mày không?” “Bẩm ông con bị mù không nhìn thấy nhưng nghe tiếng ông con nhận ra ông chính là Ngô Văn Quất do chính con đã đẻ ra ông đấy ạ”. “Mày có chịu nhận tội đã bóc lột ông bà nông dân, tội buôn bán?”. “Dạ bẩm ông con không bóc lột mà con chỉ muốn ông bà nông dân làm cho con để có gạo ăn khỏi chết đói thôi ạ. Còn cái chuyện buôn bán thì có. Đúng là con đã có buôn bán cứt, con có đổi thóc lấy cứt cũng là chỉ để ông bà nông dân có thóc mà ăn khỏi phải chết đói đấy ạ”. “Láo! Mày ngoan cố. Chính mày quá tham lam nên mới bị mù. Mày không thấy điều đó sao?”. “Bẩm ông. Điều đấy thì ông nói đúng. Đúng là bây giờ con bị mù vì ngày xưa con đau mắt mà vẫn phải gắp cứt để lấy tiền đong gạo nuôi ông đấy ạ”(29,59-60).
Một cuộc đối thoại đầy hài hước, phi lí. “Tên địa chủ” bị quy kết thực tế chỉ là một người nông dân chăm chỉ, cả đời kiếm sống bằng cái nghề đầy nhọc nhằn và tủi hổ là buôn bán phân bắc nhưng người con đã kiên quyết kết tội cha mình tham lam độc ác hoặc là vì anh ta bị các ý thức giai cấp mù quáng bịt mắt, hoặc anh ta là kẻ cơ hội táng tận lương tâm. Điều đau xót là vì sao nhân tính con người đã trở nên méo mó đến thế khi mà Cách mạng luôn đặt mục đích trên hết là đem lại hạnh phúc cho mọi người?
Cải cách ruộng đất đã đi qua hơn nửa thế kỉ, nhưng đọc lại những dòng đối thoại trên, không ai không giật mình. Giật mình bởi sự toàn khốc của lịch sử. Giật mình bởi nhà văn đã nói về lịch sử với một cái nhìn trực diện, không né tránh, sự thật được phơi bày bi đát quá. Giật mình bởi sự cao tay của nhà văn khi chọn một chi tiết rất nhỏ nhưng vô cùng đắt để tái hiện lại chính xác những lầm lẫn, ấu trĩ của một thời.
Còn đây là cảnh đấu tố trong “Dưới chín tầng trời”: “Tối đến dân làng Đoài lũ lượt ra sân Đình Đoài để đấu tố Hoàng Kì Bắc. Trần Tăng uy nghiêm đứng trên bục cao rọi ánh mắt xuống từng gương mặt làng Đoài phán xét. Không gian lặng phắc, nghe rõ từng hơi thở, từng nhịp đập con tim run rẩy hãi hùng….
- Bà con hãy nghe rõ đây, tiếng Trần Tăng vang vang, chúng ta muốn có cơm ăn, áo mặc phải trút lòng căm thù lên đầu bọn địa chủ cường hào gian ác đầu sỏ. Chúng ta phải đánh đổ giai cấp bóc lột, giành lại ruộng đất cho dân cày. Hơn lúc nào hết trong lúc này, ai là người làm thuê cho Hoàng Kì Bắc, bị Hoàng Kì Bắc bóc lột, phải vạch trần tội ác của Hoàng Kì Bắc. Ai là người thân tín ruột thịt trong gia đình Hoàng Kì Bắc muốn không bị liên lụy, muốn chứng tỏ lòng trung thành với Đảng, hãy đứng về phía những người nghèo khổ vạch trần tội ác của bọn địa chủ….
- Đúng đấy, tay Đảo chuyên nghề bắt ếch xông lên chỉ vào mặt Hoàng Kì Bắc, mày là tên địa chủ cường hào ác bá, mày cậy có tiền hoành hành nịnh bợ mọi người để che lấp tội lỗi mình. Mày mua sắm những thứ xa hoa, đèn giời, đèn kéo quân về chơi bời hát xướng vô độ làm hư hỏng dân làng. Mày tiêu hoang phí trong khi dân làng còn đói rách…..
- Cô con dâu xinh đẹp Yến Quyên đâu rồi, lên mà tố cáo thằng bố chồng dê cụ đi chớ, tay Tắc hoạn lợn lu loa…
- Phải đưa cả nhà Hoàng Kì ra hỏi tội. Tay Tắc hoạn lợn lại gào lên.
- Tên Hoàng Kì Bắc còn một tội tày trời nữa bà con biết không? Chính nó đưa thằng Đỗ Hiển, em trai Yến Quyên chạy vào Nam theo địch đấy. Mụ Vó, vợ tay Côn hàn nồi tố cáo.
…………………………………………………
 Còn cái thằng Hoàng Kì Trung, chồng con Yến Quyên nữa, mụ Vườn rêu rao, tiếng là đi kháng chiến, nhưng có khi nó là gián điệp cài cắm trong đội ngũ cách mạng cũng nên……………
Mọi người xôn xao bàn tán quy kết Hoàng Kì Bắc, đưa ra những lí lẽ đầy sức thuyết phục….”(29,54-56).
Gia đình Hoàng Kì giàu có nhờ buôn bán thuốc lào với các thương gia nước ngoài. Hoàng Kì Bắc còn được đích thân bộ trưởng Phan Anh về thăm như một ghi nhận những thành công to lớn của con người có tầm nhìn chiến lược. Gia đình ông còn là những người sống có tình nghĩa. Mỗi năm cứ đến rằm tháng Tám, Hoàng Kì Bắc lại trở về tổ chức hội đình cho bà con: “Đêm hội đình Đoài, Nam và lũ trẻ được xem thắp đèn kéo quân, thả đèn giời và nghe hát chầu văn”. Nhưng một con người từng trải như Hoàng Kì Bắc cũng không thể ngờ tới ngày gia đình mình bị đem ra đấu tố, của nả bị vét sạch sành sanh, còn vợ chồng ông  phải nhận cái chết thảm khốc.  
  Cảnh đấu tố địa chủ hoặc đem địa chủ ra xử tội là một cơn bão mà tác động của nó đến nhân tính, đến văn hóa tinh thần hết sức to lớn. Cái được nhiều, nhưng cái mất không phải ít, nhất là nó làm khủng hoảng văn hóa làng quê. Phong trào đấu tranh giai cấp này thay đổi ngôi vị của nhiều người, đảo lộn nhiều giá trị. Bản chất người nông dân là hiền lành, sống nghĩa tình. Nhưng khi họ quá khích, họ dễ mù quáng tàn bạo. Thực tiễn xã hội phức tạp và đầy dữ dội ấy được Dương Hướng quan sát dưới góc độ những thân phận người, những mảnh đời cụ thể. Có những mảnh đời tả tơi, đói khát đã được Cải cách ruộng đất đổi đời. Có những mảnh đời lại hiện ra như  nạn nhân của căn bệnh ấu trĩ, cực đoan, duy ý chí. Người đọc hôm nay không khỏi bàng hoàng khi đọc cảnh đấu tố trong “Bến không chồng”: “Tùng - tùng - tùng -  tiếng trống dậy lên khắp các nẻo đường làng. Từ cụ già lọm khọm chống gậy đến các chị con thơ tay bồng tay bế dắt díu nhau cơm đùm cơm nắm đổ dồn về sân đình Đông. Thanh thiếu niên giương cờ, biểu ngữ khẩu hiệu đi trong dòng người luôn miệng hô vang:
- Đả đảo địa chủ Hào gian ác đầu sỏ
- Đả đảo - đả đảo - đả đảo!
………………………………………………………………………………
Những cánh tay giơ lên răm rắp theo những tiếng hô đầy phẫn nộ.`….kì đài dựng cao ngất đỏ rực khẩu hiệu và biểu ngữ….Khoảng giữa kì đài và dân chúng có một khoảng trống người ta đào một cái hố tròn như hố tăng xê sâu đến ngực địa chủ Hào. Địa chủ Hào đứng dưới hố, tóc trắng phơ, mặt già khọm cúi gằm xuống đất.”( 30,47-48). Còn đây: “Ngoài đường đoàn người già trẻ gái trai rùng rùng chiêng trống, giương khẩu hiệu biểu ngữ, hô vang …Khí thế cách mạng dâng tràn. Của nả nhà ông bà bố mẹ Nam bị tịch thu sạch sành sanh. Hoàng Kì Bắc bị quy những năm tội lớn: tội thứ nhất, đi xe về ngựa học đòi tư sản; tội thứ hai, nhiều ruộng đất nhất làng Đoài; tội thứ ba, bóc lột tầng lớp bần cố nông; tội thứ tư, nghi vấn cấu kết với bọn Việt gian phản động phá hoại cách mạng; tội thứ năm, nhà to nhất làng Đoài….Dòng người từ các ngả đường tràn ra cánh mả Rốt xem xử bắn Hoàng Kì Bắc. Những chiếc nón trắng nhấp nhô dưới màu cờ đỏ. Băng biển khẩu hiệu đủ màu rực rỡ. Mặt trời lên cao, nắng nóng chiếu vào mặt từng người rát bỏng. Trên trường bắn, Hoàng Kì Bắc bị dân quân bịt mắt trói giật hai cánh tay đứng trước rừng người sôi sục căm thù, đứng trước rừng cờ băng biển biểu ngữ đủ mọi sắc màu” (29,86).
 Có những gia đình địa chủ bị truy bức đến cả trẻ nít cũng trở thành nạn nhân của đấu tranh giai cấp như cu Tốn (Bến không chồng), Nam (Dưới chín tầng trời).
Ngay chính người hăng hái nhất trong cuộc cuộc đấu tranh này cũng có lúc không tránh khỏi cảm giác bất nhẫn: “Vạn lau súng. Trong đời Vạn đã không biết bao lần lau súng. Nước thép khẩu súng Vạn giữ vẫn đen bóng. Vạn có cảm giác là lạ. Cái khó là mũi súng của Vạn lần này lại nhằm vào đầu hai thằng con trai ông Xung. Mới hôm nào Vạn còn ngồi cùng mâm ở từ đường họ, cùng véo chung một đĩa xôi gấc đỏ au”(30,51). Thậm chí lúc hành quyết, người ta đã “sững sờ về tiếng hô của tên tội phạm nào đấy :
-  Đảng lao động Việt Nam muôn năm!
-  Hồ Chủ tịch muôn năm!”
Bệnh quan liêu giáo điều, thói cơ hội, tình trạng dân trí thấp…đã khiến con người dễ bị kích động, dễ bị lợi dụng để trở thành thứ công cụ mù lòa cho những kẻ tha hóa đạo đức mà lại nắm trong tay quyền lực như Trần Tăng, Kinh, Quất….Những kẻ ấy mặc sức tác oai tác quái: “Sếp đội Trần Tăng như có phép thần thông khiến cả làng đều sợ. Từ lũ trẻ con tới cụ già lụ khụ nhìn thấy Trần Tăng là khúm núm dạ vâng, không dám cả nói to. Loài chó hung dữ thế, hễ nhìn thấy Trần Tăng là cụp đuôi lủi mất dạng”(29, 80). Quất đấu tố cả người sinh ra và nuôi dưỡng mình. Kinh thì trực tiếp nã đạn vào người đã cưu mang mẹ con mình. Không khí nghi kị, ngột ngạt khiến làng quê như sôi lên, nhức nhối bởi các vụ quy kết, các cuộc đấu tố, trắng - đen lẫn lộn.
Căn bệnh khiếp nhược, thói nông nổi của đám đông dân chúng dốt nát cũng  có thể đẩy con người ta đến chỗ chết, dẫn đến nỗi oan khuất của một số cán bộ cách mạng vốn đã vào sinh ra tử, giờ bị quy oan, không có ai che chở, bênh vực, đành bất lực. Gia đình Hoàng Kì Bắc, gia đình bố mẹ Quất đều là những người làm ăn chân chính, khó nhọc mới có bát ăn bát để. Bản thân Hoàng Kì Trung cũng tham gia cách mạng nhưng gia tộc Hoàng Kì vẫn không thoát tội.
Đặc biệt đau đớn là cảnh xử trí người có tội, dã man và tàn ác không kém thời trung cổ, mất hết tính người. Ngô Quất trong “Trần gian người đời” đã sáng chế ra phương pháp “gàu sòng” để xử tội chính người cha đẻ của y. Cuộc hành hình diễn ra trước sự chứng kiến của đông đảo bà con, từ già tới trẻ, kể cả người thân của phạm nhân: “Trong tích tắc, chiếc thòng lọng xiết chặt lấy cổ tên tội phạm lôi thốc lên không trung theo sức bật của cây tre cần, giống y như người câu cá giật được chú cá khổng lồ…chiếc cần câu mềm dẻo bật lên rũ xuống theo quán tính, đầu tên tội phạm nghẹo về một bên, cổ dài ra, người thẳng đơ nhún nhảy trên không trung…bỗng dưng chiếc dây thừng bị đứt…tên tội phạm từ trên cao bay xuống quằn quại bên lỗ huyệt…cuộc hành hình lại diễn ra như trước…lần này sợi dây lại bị đứt một lần nữa, xác tên tội phạm lập tức rơi bịch xuống đất…”(31,36).
Người đọc rùng mình kinh hãi khi thấy nhân tính đã hóa thành thú tính. Tại sao có con người lại mông muội đến thế? Họ hăm hở đấu tố, thậm chí sẵn sàng giết cả người thân của mình để thể hiện lòng trung thành, sự trong sạch. Cái ác mang gương mặt quái dị. Khi cái ác trong tay kẻ có quyền thì sức phá hoại ghê gớm không lường hết được.
Có thể gọi đó là bi kịch của lịch sử. Nhưng thực ra xem xét kĩ đó là do ý thức cá nhân chậm phát triển, tính cố kết bầy đàn thống trị đưa đến bệnh adua theo đám đông, một đám đông bạc nhược, dễ bị kích động. Dân gian xưa vẫn thường nói “Khôn độc không bằng ngốc đàn” hoặc “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Cải cách ruộng đất đã không tránh khỏi hệ lụy của tình trạng văn hóa này, nhiều oan sai xảy ra do tâm lí bầy đàn. Dương Hướng nhìn lại lịch sử với những gai góc, khuất lấp mà nếu không có tài, không có tâm, thiếu bẳn lĩnh sẽ không dễ gì chỉ ra được.
Bên cạnh việc thể hiện chân thực, sinh động công cuộc Cải cách ruộng đất, Dương Hướng cũng đề cập tới công cuộc Hợp tác hóa nông thôn với nhiều hỗn độn, rối ren phức tạp. Áp đặt máy móc cách làm không phù hợp với tực tiễn cuộc sống của người nông dân đã dẫn đến những chuyện dở khóc dở cười. Nhà văn đã chỉ ra những sai trái, những yếu kém cũng như những hạn chế trong cái phong trào hợp tác xã ở quê mình: "Từ ngày có hợp tác xã, người nông dân dửng dưng với đồng ruộng. Làm ăn chểnh mảng, ai cũng chỉ nghĩ làm thế nào để có nhiều điểm chứ không nghĩ làm thế nào để có nhiều thóc... Nông dân ta vốn  xưa coi ruộng đồng tấc đất tấc vàng, thức khuya dậy sớm vì nó, sống chết vì đất, vậy mà bây giờ họ chẳng thiết tha gì với ruộng đồng"(29,187). Và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là "cơ chế quan liêu ưa thành tích" của những người cán bộ đã làm "hư hỏng cả một thế hệ người nông dân xưa nay vốn cần cù một nắng hai sương. Nông thôn đang bị phá vỡ dần gốc rễ nền móng tốt đẹp đã có từ ngàn đời nay."(29,193). Đó là cái bi kịch chung của làng quê Việt Nam thời cải cách. Những nhận xét trên đã nói lên được thực trạng nông thôn Việt Nam thời bấy giờ - cái thời mà mọi sinh hoạt ở làng xã đều thông qua tiếng kẻng.  Đau xót thay trước những tích cóp của những người nông dân qua bao đời đang bị cơn lũ hợp tác xã cuốn trôi. Dương Hướng dám thành thực, dám phơi bày không phải để bôi xấu, mà để giúp tránh lặp lại sai lầm, để phục sinh những giá trị nhân văn đã bị hủy hoại một cách đáng tiếc. Người đọc hôm nay sẽ có được cái nhìn đầy đủ hơn về hiện thực nông thôn Việt Nam những năm sau Cách mạng từ số phận của người nông dân ở một làng quê bé nhỏ.
2. Những bi kịch cá nhân.
2.1. Bi kịch của người phụ nữ.
Một nửa đẹp đẽ nhất của thế giới này là phụ nữ. Một nửa của những cay đắng, bất hạnh cũng thuộc về người phụ nữ. Từ cuộc sống bước vào văn chương, tự cổ chí kim, người phụ nữ bao giờ cũng được nói đến với một tấm lòng đầy xót thương. Trong tiểu thuyết Dương Hướng, nổi lên là những bi kịch của người phụ nữ. Đó thường là những con người đẹp về thể chất và tâm hồn nhưng luôn phải chịu một số phận bất hạnh. Là phụ nữ, ai cũng ước mong có một hạnh phúc bình dị được làm vợ, làm mẹ, nhưng các nhân vật phụ nữ của Dương Hướng ít ai toại nguyện. Sự bất hạnh của họ có thể do những biến động lịch sử, do những chế ước nghặt nghèo của xã hội, có thể do những định kiến họ không dám vượt qua. “Bến không chồng” nói về  nỗi đau những “người gái nhỏ hậu phương”. Chồng hi sinh, họ thầm lặng cực nhọc nuôi con, gặp tình yêu mới lại thêm bất hạnh mới. Như chị Nhân, (mẹ Hạnh) một lần đau nỗi mất chồng, lại thêm bao tháng ngày khổ sở vì một tình yêu phải che giấu. Như Hạnh, tan nát tình duyên vì mối thù dòng họ. Cái bến sông đẹp đẽ lại có tên “bến không chồng” như chính số phận của những người đàn bà khổ đau ở đây. Hạnh đã chịu bao cực nhục để đến với Nghĩa. Hạnh dám chống lại lời nguyền để yêu thương Nghia, Hạnh hi sinh tuổi xuân chờ chồng nuôi mẹ. Vượt qua được định kiến của dòng họ thì chiến tranh một lần nữa lại phủ bóng đen xuống cuộc đời Hạnh khi cướp khả năng đàn ông của chồng chị. Hạnh sống trong đau đớn nhưng vẫn không thôi khát vọng được làm mẹ. Trong một cảnh ngộ đặc biệt, Hạnh đã được bù đắp. Chị có thai với chú Vạn - người bạn đồng ngũ của bố Hạnh, người đã yêu nhưng không dám đi đến hôn nhân với mẹ Hạnh. Niềm vui muộn mằn buộc chị phải xa xứ để bảo vệ danh dự cho người đàn ông ấy. Cái hạnh phúc bình dị ngỡ như người phụ nữ nào cũng có quyền hưởng, nhưng với Hạnh, đó là cả một hành trình nhọc nhằn, cay đắng, vật lộn. Cuộc đời không hề bằng phẳng, nhất là đối với những người phụ nữ dám sống, dám yêu, dám cháy hết mình vì tình yêu, hạnh phúc. Bởi với phụ nữ, tình yêu không phải là một chương đoạn mà là thiên truyện của cả cuộc đời. Họ mải mốt kiếm tìm giữa cuộc đời đầy cạm bẫy và biến động. Những cô gái dù có chồng hay không chồng, được làm mẹ  hay không vẫn chưa bao giờ thôi nguôi ngoai trong mình khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Đó là đớn đau, là trò đùa của số phận, là trớ trêu của định mệnh, là bi kịch của người phụ nữ. Cuộc đời của người phụ nữ như Hạnh là một cuộc đời dằng dặc những buồn thương. Lúc nhỏ sống thiếu tình cảm của người cha vì cha hi sinh nơi chiến trận. Lớn lên yêu Nghĩa, không được cha mẹ Nghĩa chấp nhận, bao cay cực và buồn tủi đến với Hạnh. Đêm tân hôn hai vợ chồng phải ra bờ sông tìm chỗ ngủ: “đám cưới tan, làng Đông chợt lặng đi. Cô dâu chú rể lại dắt nhau ra bờ sông. Một tay Nghĩa cắp cái phông xanh của đội văn nghệ, một tay nắm lấy bàn tay Hạnh…Cả thế giới không có cặp vợ chồng nào lại có đêm tân hôn như Hạnh và Nghĩa”(30,76). Chẳng được bao lâu thì Nghĩa lên đường nhập ngũ. Hạnh sống trong mòn mỏi: “Đã tám năm nay Hạnh nhận ra mình sống bằng những kỉ niệm với Nghĩa nhiều hơn là chờ đợi ở tương lai. Những hi vọng ngày một mỏng manh, dù mỏng manh vẫn hơn là tắt hẳn. Hạnh lội xuống bến rửa chân, lòng ngẩn ngơ nhìn mặt trăng loang loáng dưới nước. Hạnh thấy mình lạc vào thế giới mông lung sâu thẳm của những câu chuyện huyền thoại xa xưa… ”(30,180). Hạnh thật sự đã thành nàng Vọng phu ngay khi đang sống. Nỗi trông đợi mòn mỏi của cô được nhà văn miêu tả với một cái nhìn đầy cảm thương trân trọng: “Hạnh đi trên bờ sông quen thuộc xuống cống Linh. Lần này không có Nghĩa, Hạnh thấy trống trải…Hạnh kì công tự làm lấy chiếc gối đôi thêu bông hoa hồng và đôi chim, con bay con đậu. Hạnh tự nhận mình là con chim đậu đợi chờ con chim bay đi trở về. Chiếc gối đôi hạnh phúc chưa một lần vợ chồng được gối chung. Chiếc gối đôi hạnh phúc đã thấm bao mồ hôi và nước mắt của Hạnh, Hạnh đã giặt không biết bao lần sờn cũ đi mà anh vẫn chưa về. Chiếc gối khâu bằng vải popơlin trắng, dài tới 80 phân, mỗi lần đem ra sông Đình giặt, Hạnh phải giấu giếm không muốn để ai nhìn thấy sợ người ta quở, khi phơi Hạnh cũng mang ra tận ngoài vườn chuối để phơi cho đỡ chướng”(30,155-156). Còn gì khiến trái tim chúng ta xót xa hơn một nỗi khắc khoải hạnh phúc phải luôn đối diện với thói lãnh cảm, sự vô tâm của người đời. Hạnh giấu giếm vì sợ cái nhìn nghiệt ngã của người đời khi cả nước đang gồng mình vì giặc dã, ai dám nghĩ đến hạnh phúc riêng tư. Lúc này chỉ có con người công dân, không có con người cá nhân. Dương Hướng đã nhìn vào nỗi éo le của Hạnh với một cái nhìn hiện thực đầy nhân bản: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một tiếc nuối thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ái ân với Nghĩa bỗng trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra rung lên ngây ngất đi tìm lạc thú trong hoang tưởng. Hạnh lao ra dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng. Cơ thể lâu nay khô héo bỗng rạo rực ngập tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy, quẫy đạp trong ham muốn làm tình với nước. Trong phút chốc Hạnh thấy mình đang chìm dần như thể có con ba ba thuồng luồng đang trôi tuột xuống đáy sông. Hạnh hoảng loạn chới với cố nhoài lên bãi cát. Tay vẫn giữ khư khư bộ quần áo ướt sũng nước. Hạnh lao lên bến chạy dọc bờ sông. Hạnh chạy mãi, chạy mãi…”(30,181). Nỗi khao khát đầy bản năng cuả người đàn bà trẻ xa chồng được nhà văn diễn tả thật tinh tế và cảm thông. Hạnh phúc quá ít ỏi, quá mong manh, Hạnh sống trong kí ức nhiều hơn là sống với hi vọng. Kí ức về những ngày bên Nghĩa, được làm vợ, được sống trọn vẹn trong tình yêu luôn bùng cháy trong Hạnh. Chiến tranh xộc đến từng gia đình, cướp đi hạnh phúc chính đáng của hàng triệu người. Đâu chỉ người ngoài tiền tuyến hàng ngày đối mặt với cái chết mới phải chịu đựng sự khốc liệt của chiến tranh mà những người vợ, người mẹ ở hậu phương cũng mỏi mòn, nhức nhối với bao nỗi đau. Hạnh phúc lứa đôi trở thành một ham muốn thấm đẫm nước mắt, thấm đẫm nỗi đau của con người. Sự kết tụ và ngưng đọng đến mức dày đặc, không thể giải tỏa của nỗi buồn. Nỗi cô đơn của người đàn bà trẻ đẹp, đang ở tuổi thanh xuân căng tràn nhựa sống phải sống xa chồng, lầm lũi trong cảnh bặt vô âm tín do sự chia cắt của chiến tranh đã giày vò Hạnh, xé nát trái tim cô. Nhu cầu bản năng xui khiến cô nổi loạn. Hạnh ngâm mình dưới nước để mặc cho thân xác cuồng loạn trong sự bao che của nước. Bản năng của con người cũng đáng được cảm thông khi họ bị đặt vào hoàn cảnh quá nghiệt ngã , khi họ không thể tự định đoạt số phận mình, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Chị Nhân, Thắm, Cúc, Nhài cũng từng khao khát những phút giây được sống trọn vẹn với phần người bản năng rất người ấy. Không vì định kiến của xã hội, vì mặc cảm nạ dòng, chị Nhân hẳn đã có một mái ấm gia đình với Vạn. Nhưng hạnh phúc cứ ngấp nghé rồi lại tuột mất, hai con người vừa cháy lòng mong muốn được sống với nhau, lại vừa canh chừng nhau để kìm nén cảm xúc. Cuộc đời Hạnh tiểu biểu cho cuộc đời bao người phụ nữ làng Đông bên cái “Bến không chồng” đau khổ, cô đơn (như chị Nhân – mẹ Hạnh, bà Khiên – mẹ Nghĩa, như Dâu, Thắm… ), xa hơn nữa đó là số phận của những người phụ nữ Việt Nam trong và sau chiến tranh. Như Thủy chẳng hạn, Thủy là bác sĩ, có học, xinh đẹp và nhân hậu. Sau khi ly hôn với Hạnh, Nghĩa đến với Thủy, nhưng Thủy biết anh không còn khả năng sinh con. Vì yêu Nghĩa, Thủy đã bất chấp tất cả, tìm mọi cách để có đứa con mang lại sự bình yên cho anh. Nhìn ánh mắt thèm khát của Nghĩa khi nhìn một đứa trẻ con ngoài đường, lòng cô thắt lại. Cô đã hiến thân cho một kẻ qua đường chỉ cốt để Nghĩa được làm cha. Nhưng cô thất bại. Không phải ai cũng dễ có một cái nhìn đầy cảm thông cho những éo le của lòng người như Dương Hướng.
Với Thủy, yêu, hạnh phúc là được hi sinh. Khi lấy Nghĩa, Thủy hiểu nỗi khao khát của chồng muốn có con đã liều mình với người đàn ông xa lạ, để rồi cô tự dằn vặt mình là kẻ xấu xa tồi tệ. Dường như nhà văn đã sống, đã trăn trở vô cùng với những khao khát tận đáy lòng của những người vợ, người mẹ. Còn đó biết bao người phụ nữ xứng đáng có hạnh phúc nhưng rồi đành để tuột mất trong âm thầm tiếc nuối. Những người phụ nữ như Dâu, Thắm, Cúc, Nhài…mỗi người mang trong mình những nỗi đau không gọi thành tên. Thắm không hạnh phúc trong hôn nhân, để trái tim đi theo tiếng gọi của tình yêu mới. Thắm đem lòng yêu chàng pháo thủ, nhưng khi chiến tranh kết thúc, anh chàng của Thắm đã đi lấy vợ mà không hề biết rằng mình có con với Thắm, đang là niềm chờ mong mòn mỏi của cả hai mẹ con. Niềm an ủi với cô là đứa con. Dâu, Cúc, Thao…chịu cảnh “không chồng” bởi những dữ dằn, khốc liệt của chiến tranh. Dâu chờ đợi anh trai của Hạnh, nhưng cái cô nhận được là mảnh giấy báo tử. Dâu nói trong chua chát: “tao đang sung sướng…vì bỗng nhiên tao trở thành gái tân. Rõ ràng về giá trị phụ nữ tao hơn hẳn mày….Trai thời loạn, gái thời bình. Hòa bình rồi! ha ha…Đàn ông lại sẽ đầy ra”.. Cúc trả lễ cho Thành vì không thể chấp nhận khuôn mặt bị chiến tranh hủy hoại đến mức ghê sợ. Thao cũng trả lễ vì người yêu đảo ngũ, không thể sống trong tủi nhục, cay đắng…Tất cả đều do chiến tranh. Hóa ra móng vuốt của chiến tranh len lỏi mọi ngóc ngách ở cuộc đời này.
Trong tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, cuộc đời của một tiểu thư đài các, xinh đẹp như Thương Huyền cũng trở thành nạn nhân của chiến tranh. Với sắc đẹp, tài năng và một nền tảng gia đình vững chắc, Thương Huyền xứng đáng có một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cỗ máy chiến tranh đi qua đã xéo nát tất cả. Nàng phải bán mình để hoàn thành sứ mệnh tổ chức giao cho. Cuối cùng, ngay cả đến đứa con dứt ruột đẻ ra nàng cũng mất, và gần hết cuộc đời còn lại nàng sống trong bệnh tật. Chỉ có thể là chiến tranh mới đủ sức tàn phá, hủy hoại con người khốc liệt đến thế. Là nạn nhân của hai phía chiến tranh, Thương Huyền đã sống những chuỗi ngày dằng xé nội tâm giống như các nhân vật trong bi kịch cổ điển thời phục Hưng. Thương Huyền phải ngủ với cố vấn Bell để hoàn thành nhiệm vụ mà cách mạng giao cho. Khi hoàn thành xong nhiệm vụ, nhờ đứa con trong bụng mà Thương Huyền thoát chết nhưng nàng phải bỏ dở công việc vì sự day dứt, giằng xé trong tâm hồn khi là kẻ giết chính người cha của đứa con trong bụng mình. Thế nhưng khi hòa bình lập lại Thương Huyền không nhận được sự cảm thông của mọi người mà đáp lại đó là ánh mắt soi mói của những người cán bộ "kiên định lập trường" như Thu Cúc, mặc dù chính họ đã đẩy cô làm vật hy sinh "dưới hai làn đạn ở cả hai phía".
Là con dâu của  Hoàng Kỳ Bắc, vợ của Hoàng Kỳ Trung, mẹ của Hoàng Kỳ Nam, Yến Quyên phải gánh chịu những tai biến của lịch sử đưa đến gia đình. Bị quy là gia đình địa chủ, Hoàng Kỳ Trung lại đi kháng chiến biền biệt không về, ở nhà một mình Yến Quyên phải chống chọi với những sóng gió của lịch sử mà đại diện là Trần Tăng đổ lên gia đình chồng. Khi đến làng Đoài với chức danh là cán bộ cải cách ruộng đất, Trần Tăng mê đắm trước vẻ đẹp của Yến Quyên. Ông ta đã tìm mọi cách để chiếm đoạt cô từ dụ dỗ bằng những lời ngon ngọt đến những lời đe dọa: "Yến Quyên ơi! Anh đi khắp thế gian không gặp được người đàn bà đẹp như em. Em có biết tại sao anh phải liều cứu em và mẹ chồng em khỏi phải giam trong đình đêm qua không? Anh cứu em bởi em đẹp quá khiến anh không cầm lòng... Chiều anh, anh sẽ tha tội cho cả bố mẹ chồng em, nếu không anh bắn bỏ tuốt....."(29,82). Nhiều lúc tưởng chừng như Yến Quyên không thể trụ vững nổi trước những sóng gió cứ dồn dập kéo đến. Trong công cuộc hợp tác hóa, Yến Quyên một mình dám chống lại cả bộ máy làm ăn quan liêu, chạy theo thành tích để rồi bị cách chức, bị cô lập. Cái bi kịch Yến Quyên phải gánh chịu cũng là cái bi kịch do thời đại đưa đến.
“Dưới chín tầng trời” còn đề cập tới số phận long đong của mấy mẹ con bà Cháo. Thậm chí có thời gian họ phải kiếm sống bằng nghề bán thân. Khi có một gia đình để mà yêu thương, chăm sóc thì chiến tranh biên giới nổ ra, những ông chồng Tàu mang theo cả con quay về nước, Cô Mây, cô Muỗng…như phát điên. Mất chồng, mất con, với người đàn bà còn điều gì ý nghĩa và đáng sống ở cuộc đời này? Lịch sử đã để lại những chấn thương quá lớn đối với số phận từng cá nhân. Cơn bão lịch sử đi qua, và sức huỷ diệt, tàn phá ghê gớm của nó tác động rõ nhất qua số phận đầy bi kịch của những người phụ nữ chân yếu tay mềm.
Đâu chỉ người phụ nữ Việt Nam đức hạnh đảm đang mới được nhà văn dành cho cái nhìn đầy cảm thông và xót thương đến thế. Tấm lòng của Dương Hướng dành cho mọi đối tượng là phụ nữ không phân biệt quốc tịch, màu da. Trong tác phẩm này ta còn gặp một người đàn bà Tàu có số phận khá long đong, đó là nàng Mai, người tình của Đào Kinh - một người đàn bà lưu lạc nơi đất khách quê người để kiếm sống. Chồng chết, nàng lênh đênh trên chiếc thuyền như chính cuộc đời vô định của mình. Mai chấp nhận gá nghĩa với Đào Kinh những mong cuộc đời sẽ có chỗ dựa khi đứa con trai đi lính. Nhưng một lần nữa ước mơ nhỏ bé của người đàn bà tội nghiệp đó đã bị bóp nát bởi cuộc chiến tranh biên giới. Không chồng, không con, Mai chạy trốn khỏi người tình để quay về quê mẹ như một hành trình chạy trốn đau đớn, chạy trốn chính mình. Quay về Trung Quốc, Mai chấp nhận lấy một người đàn ông già, giàu có nhưng nàng lại không thể sinh hạ cho ông mụn con nối dõi tông đường. Và đích thân Mai lại phải lặn lội đi tìm vợ lẽ cho chồng để bù đắp vào những khiếm khuyết của mình. Cuối tác phẩm, nhà văn đã để Mai quay lại gặp Đào Kinh trong niềm hạnh phúc muộn mằn. Dẫu vậy, cuộc đời đầy biến động và đầy nước mắt của Mai gợi cho người đọc không ít suy nghĩ về số phận khổ đau dường như đã trở thanh định mệnh chung của những người phụ nữ trong những tiểu thuyết của Dương Hướng. 
Nga trong “Trần gian người đời” là một cô gái tài sắc, do thủ đoạn của những kẻ hèn nhát cô đã không lấy được người mình yêu. Chuỗi ngày sống trong gia đình nhà chồng là những ngày cay đắng, tủi nhục bởi trong gia đình nhà chồng, Nga không được coi là dâu con mà là kẻ thù truyền kiếp. Nga phải gánh nỗi thù hận của người cha để lại. Vì thế, chuỗi ngày sống ở nhà chồng thực sự là những ngay khủng khiếp như ngục thất. Bức, chồng Nga đã nói: “đúng ra mình phải là kẻ thù của tôi, kẻ thù của gia đình tôi. Mình chẳng hiểu gì cả. Không phải bỗng nhiên mà gia đình tôi bỏ ra bảy trăm đồng để mua chiếc vòng cầu hôn của mình. Trong lúc cả nhà phải chịu ăn đói, phải chịu khổ cực, nhặt nhạnh từng hào không phải mục đích để cho tôi có vợ, không phải để cho có hạnh phúc. Mục đích cưới mình là để hành hạ mình, để trả thù…Bảy trăm đồng mồ hôi nước mắt của cả gia đình tôi phải được đánh đổi bằng chính mồ hôi nước mắt của mình, bằng cả cuộc đời mình”(31,143). “Cả nhà sẽ không để tôi và mình sống hạnh phúc…họ đã phải bỏ ra bảy trăm đồng không phải để nhìn thấy cảnh tôi và mình yêu nhau ”(31,144). Chuỗi ngày làm dâu Nga chưa bao giờ được hạnh phúc không phải vì Nga không yêu chồng, không phải bởi công việc nặng nhọc mà bởi cô lạc lõng đến tội nghiệp trong gia đình chất chứa đầy sự thù hận. Có một thứ quyền uy vô hình nhưng chi phối, đè nặng mọi hoạt động, sinh hoạt nơi đây. Nga sống câm lặng trong nhà chồng, chứng kiến những cơn sóng ngầm đang diễn ra sôi sục mà lòng quặn đau. Cô sẽ chấp nhận một cuộc sống đày đọa như vậy đến suốt đời như vậy nếu như chiến tranh không xảy ra. Cả chồng và người yêu Nga đều ra trận và chiến đấu cùng nhau trong một đơn vị, cả hai đều rất yêu cô. Song cuộc đời đưa đẩy, Nga trở thành vợ hờ của tay Tòng để được trở thành một nghệ sĩ chèo. Chuỗi ngày sống với thứ hạnh hạnh phúc nửa vời ấy khiến Nga luôn dằn vặt trong cảm giác tội lỗi. Nga luôn coi mình là kẻ phản bội chồng, cô cũng không còn xứng đáng với tình yêu Đô dành cho mình. Chiến tranh kết thúc, Bức trở về. Cô muốn trở lại bù đắp cho Bức nhưng anh đã từ chối vì mình là người tàn phế. Cho đến cuối tác phẩm, Nga vẫn mang trong tâm hồn mình nỗi thổn thức, nỗi cô đơn dai dẳng. Vậy là vì chiến tranh mà Nga thành trắng tay.
Số phận của họ -  những người phụ nữ trên trang viết của Dương Hướng  bị đè nặng bởi nỗi đau. Có nỗi đau do ngoại cảnh đưa đến. Có nỗi đau xuất phát từ chính tâm hồn quá nhạy cảm và sự nhẫn nhịn của họ. Nhưng người phụ nữ trong con mắt nhà văn dù chịu thiệt thòi đến thế nào, dù gánh những bi kịch nặng nề, họ vẫn luôn đẹp về cả hình thể lẫn tâm hồn, cái đẹp như thách thức tất cả, và cũng cô đơn xiết bao ở cuộc đời nhiều đen bạc vô thường.
2.2. Bi kịch của người lính.
Câu thành ngữ “trai thời loạn” không chỉ nói về giá trị người con trai khi đất nước loạn ly binh lửa mà còn thừa nhận sứ mệnh nặng nề họ phải gánh vác. Đạo đức phong kiến kêu gọi họ “sát nhân thành thân”, “xả sinh chủ nghĩa”. Sau Cách mạng tháng 8, khẩu hiệu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã nêu bật ý chí, đức hi sinh, chủ nghĩa anh hùng của những người cầm súng. Theo đó, văn học thời chiến bao giờ cũng miêu tả người lính trong tinh thần khắc khổ, không suy nghĩ cho riêng bản thân mà bao giờ cũng sống cho cộng đồng, chết cho Tổ quốc. Tình cảm của họ đại diện cho những tình cảm lớn lao, vĩ đại của toàn dân. Vì vậy, với hình dáng một thánh nhân, người lính trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trước 1975 thường bị gạt bỏ những gì thuộc về đời sống riêng tư, tình cảm cá nhân, những vấn đề thuộc về bản năng lại càng bị cấm kị. Sau 1975, tiểu thuyết về chiến tranh đã chạm đến những những vấn đề riêng tư nhất của con người. Đặc biệt là từ sau 1986, trong tinh thần đổi mới, cùng với sự thay đổi quan niệm về hiện thực cũng như quan niệm về con người, cái nhìn chiến tranh có thay đổi đáng kể trong nhiều tác phẩm. Có thể nói rằng, chưa có thời kỳ văn học nào lại nói nhiều đến nỗi buồn chiến tranh như thời kỳ văn học sau đổi mới. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ bước ra từ cuộc chiến sinh tử nơi chiến trường. Nỗi buồn ấy không phải là buồn thất thế của Khuất Nguyên, buồn nhân tình thế thái của Đỗ Phủ, buồn “mang mang thiên cổ” của Huy Cận, hay buồn hư ảo của Hàn Mặc Tử, mà là nỗi buồn vì quá khứ huy hoàng nhưng nhiều mất mát, buồn vì tương lai bị đầu độc bởi những chấn thương tinh thần đậm sâu, hơn cả là nỗi buồn nhân tính bị hủy hoại. Cuộc chiến đi qua còn để lại  những tâm hồn què quặt, những ám ảnh bạo lực ghê rợn. Nỗi đau về tinh thần không thể chữa khỏi ngày một ngày hai. Có nỗi buồn cứ dai dẳng, triền miên, trở thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời người lính, như trường hợp Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ban đầu khi nhập ngũ Kiên hăm hở và tràn đầy niềm tin. Trong cuộc chiến ác liệt, chứng kiến cái chết của đồng đội, cảnh máu chảy đầu rơi, rồi chính tay mình vấy máu, tâm hồn Kiên tê dại đau đớn. Để khi bước ra khỏi cuộc chiến, kí ức chiến trường cứ bám riết lấy tâm hồn anh, đè nặng lên khối óc anh. Kiên muốn viết một tác phẩm về một thời chiến đấu của anh và đồng đội “Có lẽ rất ít người cầm bút đương thời nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết đến như Kiên”. Trải nghiệm chiến tranh tàn khốc, dữ dội đến mức Kiên cảm thấy “ Hòa bình ập tới phũ phàng, choáng váng đất trời và xiêu đảo lòng người, gây bàng hoàng, gây đau đớn nhiều hơn là mừng vui…Và anh đột nhiên thấy tràn ngập trong cảm giác cô đơn trơ trọi, trơ trọi hơn bao giờ hết, trơ trọi từ đây”(47,119). Thế là nỗi buồn chiến tranh thành nỗi buồn hậu chiến: “Cứ nhìn kĩ nền hòa bình thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót, chua chát và nhất là buồn xiết bao”( 47,273). Tuấn trong “Không phải trò đùa” của Khuất Quang Thụy trở về sau những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt với nhiều vết bỏng bom Napan trên ngực. Vết thương ấy chính là vật cản vô hình tình yêu của anh và Hảo. Tưởng đó chỉ là vết thương nhỏ trên da thịt, ai ngờ nó khoét sâu vào tâm hồn anh, khiến hạnh phúc của anh thấm đẫm xót xa, đau đớn. Vì vết thương quái ác đó, Tuấn luôn mang trong mình mặc cảm khi nhớ lại ánh mắt hoảng sợ của người yêu. Anh cảm thấy mình cô đơn ngay giữa những người thân yêu nhất, lạc loài ngay giữa cộng đồng. Đó là những nỗi đau ám ảnh Tuấn suốt đời, theo anh mãi mãi… Nếu trong tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn 1945-1975 chân dung người lính được thể hiện chủ yếu qua hành động, qua khả năng chiến thắng những thử thách khắc nghiệt thì trong tiểu thuyết hậu chiến, họ hiện lên chủ yếu qua những biến cố tâm lí, qua “lịch sử tâm hồn”. Tất cả cho thấy sự đổi mới tư duy nghệ thuật trên lộ trình mới của văn học Việt Nam hiện đại. Nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến không bộc lộ mình trong những sự kiện ác liệt được lấy làm bối cảnh của tác phẩm như một kiểu nhân vật hành động mà chủ yếu xuất hiện trong trạng thái suy tư, chiêm nghiệm. Từng là một người lính, Dương Hướng thấm thía tâm trạng hẫng hụt của họ. Cả 3 tiểu thuyết của ông đều tỏ ra am tường, soi xét một cách thấu đáo thế giới nội tâm đa dạng, phức tạp của những con người vừa đi qua cơn bão đạn bom. Họ vừa là con người của thời hiện tại, trực tiếp đối mặt với cuộc mưu sinh thường ngày, vừa là con người của quá khứ trong nhu cầu nhận thức lại quá khứ ấy. Người lính bước ra từ chiến tranh đều ít nhiều mang thương tật về tâm hồn. Họ bị cầm tù bởi quá khứ khủng khiếp, có khi đánh mất cảm giác về hiện tại. Nguyễn Vạn trong “Bến không chồng” trở về làng Đông trong hình ảnh một vị anh hùng lấp lánh huân huy chương trên ngực áo nhưng đằng sau vẻ rạng rỡ ấy vẫn là một tính cách hằn in di chứng chiến tranh. Nguyễn Vạn sống lặng lẽ, cô đơn, lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu những nỗi niềm, khao khát riêng tư, không dám “bước qua lời nguyền” giữa hai dòng họ để có được chút hạnh phúc muộn mằn sưởi ấm quãng đời còn lại. Nếp sống thời chiến, lối tư duy thời chiến ngấm sâu vào Vạn, biến anh thành một khối ý chí rắn đanh. Anh xa lạ với những buồn vui thường tình của cõi người:
“Điều dáng sợ nhất với Vạn là để mất lòng tin với với Đảng. Từ một việc nhỏ Vạn cũng phải cân nhắc xem có phải đấy là lòng dân ý Đảng. Lâu nay Vạn xét lại lòng mình và thấy rằng Vạn đã yêu thương chị Nhân. Đấy là do những giây phút yếu hèn không kìm nén được. Lí trí không cho phép Vạn làm điều ấy. Điều ấy là lỗi lầm đáng tiếc không xứng đáng với người chiến sĩ cách mạng, không xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của dân, làng họ mạc. Thời trai trẻ của vạn đã qua, Vạn sống với niềm kiêu hãnh Vạn đã có ”(30,64).
Vạn đã, đang và sẽ sống với những chuẩn mực cứng nhắc mà Vạn cho rằng  cuộc đời Vạn, tuổi trẻ của Vạn đã hi sinh, cống hiến vì nó. Phút giây con người sống với cái bản ngã tự nhiên lại bị Vạn coi là “yếu hèn” “không xứng đáng”. Đó thực sự là một kiểu tật nguyền về tâm hồn. Con người xã hội, con người duy ý chí triệt tiêu những gì thuộc về con người tự nhiên, con người bản thể. Ngay cả đến thứ tình cảm quý giá nhất là tình yêu của những người phụ nữ như Nhân, như Hạnh, Vạn cũng chối bỏ: “Chú đây cũng có thời yêu mẹ cháu. Nếu như chú không vững vàng giữ mình thì bây giờ cũng đã mất hết cả”(30,67).
Trong chiến tranh, những người xả thân vì việc lớn như Vạn đáng quý biết bao. Nhưng trở lại với cuộc sống thời bình với muôn vàn những sự phức tạp, hỗn độn, Vạn không chỉ trở nên lạc loài mà còn có khi thành ra nỗi khiếp sợ đối với dân làng. Những tấm huân chương lấp lánh trên ngực từng là niềm kiêu hãnh của Vạn, là sự ngưỡng mộ của dân làng Đông đã không giúp Vạn sống hạnh phúc. Thậm chí anh ta bị đứa cháu yêu thương kết án: “Chú hèn lắm! Chú là người không có tim”. Vạn đã muốn sống như một biểu tượng của cả làng Đông: “Mày cứ nhìn chú đây mà sống”. Vạn tôn thờ quá khứ trận mạc: “Mẹ chúng mày, không có Điện Biên thì làm gì chúng mày có ngày nay, làm gì chúng mày được ngồi đây mà rửng mỡ hả? Rõ đồ phản động reo rắc mầm mống tư sản” (30,216). Vạn hụt hẫng, đau xót và phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của mọi người. Người ta bận bịu với hiện tại, Vạn thì say mê quá khứ. Anh ta chưa bao giờ biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ, chưa bao giờ mơ về một mái ấm “Cả đời Vạn đã có một mối tình nào đâu mà biết nỗi buồn và niềm vui lạc thú của tình yêu”(30, 214). Vạn tự khước từ những nhu cầu vô cùng chính đáng của một con người chỉ vì cái uy tín hão huyền “Không! Không bao giờ lại xảy ra điều khủng khiếp ấy. Trên đời này còn bao nhiêu chuyện ràng buộc: danh dự, uy tín”( 30,146). Con người ấy đã sống trong niềm kiêu hãnh và sự cô độc đúng như Hạnh nhận xét” một người không ai tốt bằng nhưng cũng không ai cô đơn và khổ bằng”.
Nhưng đau đớn là ở chỗ trong Vạn phần con người bản năng vẫn không chịu ngủ yên. Nó vẫn sống, vẫn thức dậy và nó làm cho Vạn khổ sở. Vạn luôn bị vật lộn, giằng co giữa lí trí và tình cảm, giữa lí tưởng và bản năng, giữa hành động và suy nghĩ, giữa ý thức giai cấp và tình người. Một cuộc vật lộn âm thầm, dai dẳng nhưng đầy quyết liệt: “Tâm tính Vạn cũng thay đổi. Về đêm Nguyễn Vạn cảm nhận thấy nơi đây hoàn toàn hoang dã không một ai trên đời này còn biết đến Nguyễn Vạn. Người làng Đông hầu như đã quên Nguyễn Vạn vì lâu nay họ không còn nhìn thấy dáng dấp thập thễnh của Vạn bước đi trên đường làng, la cà vào các gia đình uống nước như trước nữa. Khu vườn yên tĩnh của Vạn được ngăn cách với thế giới sôi động bên ngoài bằng hàng rào tre cắm thành hình mắt cáo. Chiều đến cảnh bến tắm lại hiện ra trước mắt Vạn. Từ con trâu, con nghé, đến trẻ con, người già, con trai con gái dắt díu nhau ra bến tắm, tất cả có ai biết nơi đây còn có Nguyễn Vạn đang sống. Họ mải nhởn nhơ với nước với gió, Vạn không cố tình để ý nhưng  mọi diễn biến trên bến vẫn đập vào mắt Vạn. Khổ nhất là bọn đàn bà con gái lại hớ hênh phơi cái phần da thịt trắng hớn ra giữa trời đất. Gặp cảnh này, Vạn lại nhảy vào giường vật mình, vật mẩy và nhận ra mình là kẻ hư hỏng quá lắm. Ngày tháng trôi đi Vạn vẫn sống trong thế giới riêng vừa cô đơn vừa sống động…. Đến bây giờ Vạn mới thấy tiếc mình không lấy vợ sớm. Xưa nay có mấy khi Vạn nghĩ đến bản thân mình”( 30,277).
Dương Hướng đã nhìn thật sâu vào tâm tư của Vạn để nhận ra bi kịch của con người khốn khổ này. Vạn tự tách mình khỏi thế giới bình thường, khăng khăng làm một thánh nhân để rồi hằng đêm Vạn sống trong sự vật lộn đau đớn ê chề. Cái gì đã làm Vạn trở thành con người khốn khổ đến thế? Nỗi khổ không được là mình, không dám sống với những khao khát rất con người của mình. Vạn cứ cày xới cái quá khứ oai hùng để ngoảnh mặt quay lưng với bao điều tốt đẹp Vạn xứng đáng có. Vạn muốn làm một thánh nhân để xứng đáng với sự ngưỡng mộ của dân làng. Chỉ trong khoảnh khắc say rượu, Vạn mới dám buông mình cho tiếng gọi mạnh mẽ của bản năng. Một lần duy nhất “Nguyễn Vạn bàng hoàng cả người không hiểu mình đang mơ hay tỉnh. Men rượu vẫn nung nấu trái tim làm tâm trí Nguyễn Vạn quay cuồng. Da thịt đàn bà nần nẫn trong vòng tay và hơi thở đầy dục vọng phả vào mặt Vạn. Sự ham muốn của Nguyễn Vạn lần này còn mãnh liệt hơn lần Vạn chạm vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà. Lần đầu tiên trong Vạn thấy sung sướng cực độ và quên hẳn mình. Mưa gió vẫn ràn rạt ngoài cửa”(30,281). Phần bản năng đã chiến thắng phần thánh nhân của Vạn -con người ta không thể mãi mãi ép xác. Phút giây bản năng trỗi dậy hóa ra chính là thời khắc anh được làm người - một con người đúng nghĩa. Hạnh phúc ngắn ngủi trong đêm đầy giông bão không làm cuộc đời Vạn tươi sáng hơn. Trái lại, Vạn luôn sống trong cảm giác dằn vặt, tội lỗi:
“Qua cái đêm giông bão của cuộc đời, Nguyễn Vạn không còn dám nhìn vào bất cứ ai ở làng Đông. Vạn tự thấy xấu hổ với cả những đứa trẻ con tí teo. Ngày đêm thu mình trong ngôi nhà trên vườn ươm với bao ý nghĩ vò xé trái tim Vạn. Bây giờ Vạn mới tỉnh ra qua cơn say và thấy hối tiếc đã đánh mất đi tình cảm thiêng liêng trong sáng ở cả hai mẹ con Hạnh, và tự vùi dập đi niềm kiêu hãnh của mình với dân làng. Vạn tự xỉ vả mình và thấy ngực nhói đau muốn cầm thanh củi chọc thẳng vào bụng. Nhục! Nhục nhã quá! Tồi tệ hơn cả lão Xung và mụ Hơn. Thế mà bao nhiêu năm nay, trong suốt cả cuộc đời, Vạn cứ đinh ninh tin tưởng vào phẩm giá của mình. Thế là hết! Vạn tưởng tượng rõ thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đọa, hủy hoại cả cuộc đời tiết hạnh của Hạnh” (30,282).
Luôn kiểm soát mình, tin vào lí trí mình, tự trói mình, Vạn không thể tránh khỏi bi kịch, tự đưa đầu vào bi kịch, suốt đời bi kịch. Đặt ra vấn đề hạnh phúc của con người giữa sự ràng buộc và quán tính của đời sống cá nhân là đóng góp đáng kể của tiểu thuyết Dương Hướng. Vạn luôn mang trong mình một niềm tin thiêng liêng vào những chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời. Niềm hạnh phúc bất ngờ ập đến với Vạn, khi Hạnh xuất hiện - cái hạnh phúc cả một đời anh chưa từng được hưởng, nhưng chưa bao giờ anh dám nghĩ, có thể đánh đổi uy tín danh dự để có nó  cho nên anh đã để tuột mất rồi tìm đến cái chết, như một cách trốn tránh. Một cái chết gây bao thương cảm, xót xa cho dân làng, làm nên một kết thúc, không hẳn là bi quan, hay chỉ là bi quan một nửa của “Bến không chồng”. Dương Hướng có ý thức chọn một đám tang như một “hoá giải” cho biết bao là xót xa, lầm lạc, bất hạnh có mặt trong cõi đời; và đám tang cả làng đưa tiễn Vạn có ý vị một cuộc tiễn đưa quá khứ. Và nói “hoá giải” là nói đến một nhe nhắm, gửi gắm, về con đường mới cho làng Đông, không phải cho tất cả những ai từng sinh ra ở làng Đông, mà cho một thế hệ khác, thế hệ tương lai, có thể là đứa con của Hạnh...Làng Đông ở cuối truyện vẫn đìu hiu, quạnh quẽ sau đám tang, nhưng dòng cuối truyện đã có hửng lên một “ánh nắng xuân” trong “nhấp nhô những vành khăn tang trắng” của cả làng đưa tiễn Vạn.Và chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều những bi kịch tinh thần của người lính trong tiểu thuyết hậu chiến như Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Giang Minh Sài trong “Thời xa vắng ” của Lê Lựu, Hai Hùng trong “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai…Những người lính bước ra từ cuộc chiến oai hùng, trên ngực lấp lánh huân chương nhưng lại không thể hòa nhập nổi với cuộc sống thời bình mà họ đã không tiếc thân để bảo vệ. Cơ thể bầm dập vì chiến tranh, người lính thường ngoái lại quá khứ. Hoặc họ vì ám ảnh quá khứ mà đánh mất thực tại, hoặc họ ngộ nhận những giá trị thời chiến sẽ là những giá trị dẫn dắt thời bình. Tinh thần duy ý chí và sự áp đặt của cộng đồng đã tác động ghê gớm tới tâm lí, nhân cách con người. Cái khuôn mẫu văn hóa thời chiến ấy còn tồn tại trong thời bình dai dẳng đến mức hoặc đã đè bẹp ý thức của người lính, khiến họ trở nên thiếu bản lĩnh, thiếu quyết đoán, hoặc khiến họ “ép xác” mong thành những biểu tượng đẹp đẽ vĩnh viễn. Vết thương về thể xác có thể kín miệng liền da, nhưng những chấn thương tinh thần thì không dễ gì ngày một ngày hai có thể chữa lành. Nó đeo đẳng, ám ảnh con người. Nó làm con người trở nên lạc lõng xa lạ giữa thời bình chỉ vì thới quen tư duy đơn giản, rạch ròi thời chiến.
Trong tiểu thuyết “Bến không chồng”,  ngoài Vạn được nhà văn khắc họa nổi rõ bi kịch của người lính sau chiến tranh, người đọc cũng nhận ra nhiều bi kịch không gọi thành tên của những người lính trở về từ chiến trường như Nghĩa, Thành…Với Nghĩa, quân hàm thiếu tá không giúp anh hạnh phúc hơn. Trái lại, bước ra từ chiến trường máu lửa, cuộc đời Nghĩa đi qua biết bao ngã rẽ mà anh không thể lường trước được: cuộc chia tay đau đớn với Hạnh - người vợ anh rất mực yêu thương; cuộc kì ngộ với Thủy và một cuộc hôn nhân chóng vánh như trốn chạy quá khứ cũng không làm cho quãng đời còn lại của anh sáng sủa hơn chút nào. Nhưng đau đớn hơn cả là chiến tranh đã cướp đi của anh khả năng làm cha, khiến cả hai người đàn bà gắn bó với anh thành dang dở. Thành mang bộ mặt ghê sợ tới mức quái dị do bị bỏng bom Napan trong chiến trường. Gương mặt ám ảnh anh cả trong giấc mơ. Gương mặt ấy đã hủy hoại cuộc đời Thành vì không một cô gái nào dám nhìn vào khuôn mặt biến dạng ấy dù biết rằng sau khuôn mặt đó là một tâm hồn vô cùng đẹp đẽ. Có những sự thật nghiệt ngã vẫn xảy ra trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ này và con người buộc phải chấp nhận. Những người lính còn sống trở về sau chiến tranh nhưng họ mất quá nhiều thứ : tình yêu, hạnh phúc, niềm tin, cả niềm kiêu hãnh lớn lao trong mình.
 Bức trong “Trần gian người đời” không còn đôi chân, anh mặc cảm, sống cô lập, cố thu mình vào thế giới riêng, rất đau đớn khi khước từ tình thương của Nga – vợ anh. Bức đã chọn cái chết như một giải pháp kết thúc những tháng ngày buồn tủi cô đơn. Súng đạn nơi chiến trường ác liệt không giết được Bức, nhưng chính Bức không vượt qua được nỗi đau âm thầm dai dẳng của một kẻ tàn phế. Thế mới biết, chiến trường không tiếng súng tàn khốc biết nhường nào. Trở về từ cõi chết để rồi họ lại rơi vào hố thẳm cô đơn giữa người thân và đồng loại. Cái chết với họ vừa là một sự giải thoát, vừa là một cuộc trốn chạy chính mình.
Hoàng Đô cũng là một người lính mang trong mình bao nỗi chua chát đau đớn khi bước ra từ khói lửa chiến trường. Bước vào cuộc chiến, Đô mang theo một trái tim tan vỡ khi mối tình đầu không thành. Chiến tranh kết thúc, Đô lấy người vợ trẻ trung xinh đẹp nhưng lẳng lơ đàng điếm. Đó mới thực sự là chuỗi ngày bi kịch của anh. Hàng ngày, Đô phải nhìn vào gương mặt đầy sự “giả dối, đê tiện và nhơ nhớp” của vợ: “Anh đã cố “tiết kiệm thần kinh” cho qua chuyện mà không được…Không, anh không chịu đựng mãi dù anh chẳng còn gì ngoài thân hình tiều tụy và hai bàn tay trắng. Chính cái rực rỡ bề ngoài ở đây đã gặm nhấm sức lực anh…Ánh mắt, nụ cười lúc nào cũng vuốt ve lừa phỉnh mỗi khi anh ngồi vào bàn viết và những khi anh mỏi mệt nằm vật ra giường”(31,3). Đô bước chân khỏi “địa ngục” đó để dấn thân và cống hiến cho sự nghiệp cầm bút. Nhưng sự phức tạp, xô bồ của cuộc sống lại một lần nữa làm anh mất thăng bằng, mất niềm tin “ Bản thân anh thì mất hết- tình yêu, công việc, tài sản và cả danh dự”. Anh cảm thấy “cả cuộc đời anh luôn lỡ dở”.  Lỡ dở vì hạnh phúc xa vời, lí tưởng công danh sự nghiệp đổ vỡ. Lỡ dở vì phải chứng kiến những trò đảo điên quay cuồng của xã hội người.
 Nhân vật người lính không được Dương Hướng khai thác dưới góc độ những kí ức và hoài niệm như Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh”, Hai Hùng trong “Ăn mày dĩ vẵng” mà được nhà văn đặt vào giữa dòng xoáy của cuộc đời. Bước ra khỏi cuộc chiến oai hùng bao nhiêu thì hòa nhập trở lại cuộc sống đời thường họ bơ vơ, nhỏ bé bấy nhiêu, thậm chí mang trong mình những khuyết tật về tâm hồn như một mặc cảm nặng nề. Vương trong “Dưới chín tầng trời” là một một người hùng trong chiến tranh. Cùng trang lứa với Hoàng Kỳ Nam, sống thiên về nội tâm, Vương sống liều lĩnh, táo bạo, thông minh. Nhờ tính cách đó mà Đào Vương có nhiều sáng kiến hay trong chiến đấu, giúp đơn vị không bị tổn thất về người mà còn là yếu tố vô cùng quan trọng tạo cho quân ta ồ ạt kéo vào giải phóng thành phố trong dịp tết. Bởi thế Vương được kết nạp vào Đảng, được đề bạt chức tiểu đội trưởng. Vương chính là lớp người kế tiếp lớp người đi trước như Hoàng Kỳ Trung. Khi chiến tranh kết thúc, Vương trở thành thương binh. Trong chiến đấu Vương là một người anh hùng thì khi trở về Vương chỉ là một kẻ tàn phế. Là một người có: "bản tính mạnh mẽ, làm gì cũng muốn nổi tiếng, tính khí lại ngang tàng, sức sống hừng hực, dục vọng tràn trề"(29,410) giờ phải "ru rú giam mình trên chiếc xe lăn"(489), Vương thấy thật không thể chịu nổi. Một nỗi chua xót mặc cảm trào lên trong lòng người anh hùng trẻ. Không những thế, khi trở về quê hương, tận mắt chứng kiến những bất công ở làng mình, Vương cảm thấy đau đớn. Những gì anh và đồng đội của mình phải đổi bằng xương máu đang bị phá hoại bởi sự tham lam vụ lợi của một số người. Anh phẫn nộ: “Thằng Vương này còn sống ngày sẽ không để các người muốn làm gì thì làm. Tôi sẽ đấu tranh cho quyền lợi của dân làng Đoài đến hơi thở cuối cùng…Dân mình có nghèo đói cũng không bao giờ chịu nhục vì phải sống nhờ vào đồng tiền nhơ bẩn của những kẻ phản bội Tổ quốc. Thằng Đào Vương này đổ máu xương ngoài chiến trường không phải để cho những kẻ yếu hèn phản động muốn làm gì thì làm”(29,407). Đó là tâm trạng hụt hẫng xót xa của người hùng giờ đã lạc thời. Vương chua chát thốt lên: “Mấy năm ru rú trên chiếc xe lăn này, tớ hiểu rõ cái hư vô của cuộc đời. Hóa ra những người cứ cố vượt lên, cố làm được gì đó như ông bà nội Hoàng Kì Bắc nhà cậu, như ông bà Đức Cường, bố mẹ của Thương Huyền, mặc dù giàu có vậy, kết cục cũng trắng tay. Thật khủng khiếp, nếu đặt mình ở địa vị ấy, có lẽ mình cũng không chịu nổi…Đến như bố cậu, đánh Đông dẹp Bắc, chỉ huy xe tăng thiết giáp thực oai hùng, lên đến tướng rồi cũng sẽ làm được gì? Ngay đến như tôi và ông giờ cũng thấy bơ vơ nữa là…Đời cũng rõ là ”(29,409). Đó là tâm trạng hoài nghi của con người lạc lõng giữa đời, khó thích nghi với môi trường xã hội hiện tại, bị văng ra lề cuộc sống. Cuộc đời thật bất công. Là một người không từng trải và chưa có được cái bản lĩnh như Hoàng Kỳ Trung, Vương bị cuộc đời "quật" ngã dẫn đến bi kịch. Bi kịch của người anh hùng thời hậu chiến. Phải chăng chiến tranh đã khiến cho con người mất khả năng trở lại cuộc sống đời thường hay cuộc sống thời hậu chiến quá nhiều lốc xoáy, phức tạp, nan giải? Trở về tật nguyền trên chiếc xe lăn, người cha bỏ đi biệt xứ, cô em gái cùng mẹ khác cha cũng lên tỉnh tìm kiếm cơ hội đổi đời, Vương ở nhà với người mẹ tính khí đồng bóng, không ai có thể chia sẻ với Vương tâm trạng thất vọng đau đớn. Vương mất đôi chân, sinh lực tuổi trẻ bị trói chặt vào chiếc xe lăn, tâm hồn u uất. Vương khinh ghét người cha đã ruồng bỏ mẹ con anh. Vậy mà ông ta khi trở thành một người giàu có, thành đạt vẫn luôn phủ bóng lên cuộc đời Vương, lên những người thân của anh. Đó là điều khiến Vương nhức nhối.  
Ngược lại với Vương, Hoàng Kì Nam vô cùng hạnh phúc vào chiến trường để noi gương người cha thần tượng thần tượng chiến đấu hết mình để giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Nhưng nỗ lực phấn đấu của Nam thành công dã tràng. Hai lần anh được đưa vào danh sách cảm tình Đảng nhưng đều không được kết nạp bởi những lỗi lầm không phải mình gây ra. Lần đầu tiên, anh buộc phải nhận lỗi thay cho thủ trưởng bởi nếu sự việc mà vỡ lở thì cả đơn vị sẽ mất lòng tin vào cuộc chiến đấu. Còn lần thứ hai, khi Nam đang ở đơn vị trực chiến thì bố Hoàng Kỳ Trung bị bắt, anh bị chuyển về "trại tăng gia mãi tít trên rừng xanh núi đỏ" nên cũng không được kết nạp vào Đảng. Những oan khuất của Nam sinh ra do sự ấu trĩ, điên rồ của lịch sử. Không chỉ có thế, hạnh phúc gia đình anh cũng rất mong manh.  Do một hiểu làm không đáng có, Nam phải cưới Tuyết để bảo vệ danh dự cho cô. Hôn nhân không hạnh phúc để lại nỗi đau dai dẳng trong Nam. Khi anh còn mải mê chiến đấu lập công thì vợ anh ở quê đã ngã vào lòng kẻ khác. Nam quyết định li hôn với người vợ đầy tham vọng để dồn sức cho công viêc. Nhưng trong công việc, Nam cũng gặp bi kịch. Sau khi ra khỏi quân ngũ, anh đi học và trở thành một nhà báo, một nhà văn. Từ cầm súng chuyển sang cầm bút, anh vẫn luôn là một con người có trách nhiệm và lương tâm với chính ngòi bút của mình. Khi vào nghề viết, Nam phải viết theo "sự sắp đặt của ông tổng biên tập", và mặc dù không làm trái với nhân cách của một nhà văn nhưng anh vẫn cảm thấy bị mất tự do trong sáng tạo nghệ thuật. Cũng chính ý thức tự do rất mạnh đã thôi thúc anh đi đến hai quyết định: bỏ vợ và bỏ nghề làm báo để trở thành người tự do, bỏ vợ anh trở thành "người tự do một nửa" và khi bỏ nghề anh thành "người tự do hoàn toàn”. Tất cả tình cảm của anh hướng về Thương Huyền, người đến với anh cũng do một sự hiểu lầm của chiến tranh. Tình yêu của anh với Thương Huyền là một tình yêu rất thánh thiện, “tình yêu platonic” . Nó vượt qua những ham muốn nhục cảm mà vươn tới sự hòa hợp của hai tâm hồn đầy lãng mạn. Trong cuộc sống hôm nay khó mà có thể tìm được những mối tình như thế. Còn bi kịch trong nghề của anh là không được viết theo những gì trái tim mình mách bảo. Như vậy, xét cho cùng Hoàng Kỳ Nam cũng là một nhân vật mang sắc thái bi kịch phổ biến của thời đại. Những trắc trở, những éo le mà nhân vật vấp phải một phần do thời đại mang lại, một phần do tính cách của nhân vật (một người có trách nhiệm và một tâm hồn tự do). Có thể nói, Hoàng Kỳ Nam là nhân vật đã được Dương Hướng thổi vào cái nhiệt hứng của mình khi viết “Dưới chín tầng trời" và những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghề nghiệp tiểu thuyết được nhà văn gửi gắm vào nhân vật này:“Nam mơ hồ sống bên Thương Huyền trong tâm trạng mơ hồ nửa hư nửa thực. Trong tâm trí Hoàng Kì Nam nảy nở bao nhiêu chiêm nghiệm lớn lao về một cuốn tiểu thuyết mà Nam nung nấu. Nam muốn nói tiếng nói của mình, muốn có quan điểm riêng của mình”(29,426). Bi kịch của Nam là bi kịch của một kẻ dám đánh đổi tất cả để có tự do: tự do trong tình yêu và tự do trong sáng tạo nghệ thuật.
Một người lính khác được Dương Hướng công phu xây dựng, đó là Hoàng Kỳ Trung. Đây cũng là một nhân vật mang dấu ấn bi kịch của thời đại. Là người đi kháng chiến, sau đó làm cán bộ cải cách, có nhiều cống hiến cho cách mạng nhưng ông không thể nào ngờ rằng gia đình mình lại là nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất. Về làng giữa lúc gia đình tan nát, thấy mình bất lực, ông đành nuốt hận vào lòng và tiếp tục đi kháng chiến. Đối với Hoàng Kỳ Trung đi kháng chiến là để xóa đi cái vết đen trong lý lịch gia đình, để cứu lấy gia tộc đồng thời để đứng vững được trước những biến động dữ dằn của lịch sử. Sau này ông giảng giải cho con trai: “Đã là con người ai không muốn sướng, nhưng thời thế thế thời phải thế con ạ. Anh ngẫm mà xem, đời ông bà mình cũng thuộc diện giàu có nhất làng Đoài này, nhưng thời thế đổi thay, nếu bố không nhìn xa hơn, không đi theo cách mạng thì lịch sử cũng nghiền nát bố từ lâu rồi…Chính những điều anh trách bố bảo thủ lạc hậu ấy lại làm nên chỗ đứng vững chắc cho bố ngày nay đấy”(29,345). Có thể nói đây là một suy nghĩ rất thức thời của nhân vật này. Hoàng Kỳ Trung thấy rõ những rối ren, phức tạp trong thời đại ông đang sống. Bên cạnh những thành quả lớn lao là vô số những hệ lụy. Nếu không biết cách ứng xử thì sẽ bị lịch sử nghiền nát ngay lập tức. Và cách ứng xử của Hoàng Kỳ Trung là nhẫn nhịn chịu đựng: "Con ạ, làm được người tử tế còn phải nhận biết và chịu đựng được cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống"(29,346). Dù đi kháng chiến biền biệt ông vẫn thấu hiểu được những mặt trái đang diễn ra trong phong trào hợp tác hóa ở quê mình "như một cơn lũ... cuốn phăng đi mọi thứ của nhà nông đã tích góp từ bao đời"(29,346,) nhưng ông cũng thấy nếu lao ra chống đỡ sẽ bị nó đánh cho "nhừ đòn", và cách duy nhất là "phải chịu đựng". Ông đưa ra triết lý: "Thời thế thế thời phải thế"(345). Nhờ triết lý này, ông Trung đã "sống sót" qua những tai biến của lịch sử, không những thế ông còn trở thành người anh hùng của thời đại, thành một vị tướng không khuất phục trước sự tra tấn dã man của kẻ thù và giành được rất nhiều chiến công trên chiến trường. Trong ông những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất tồn tại bên cạnh những khuyết điểm, những méo mó dị dạng về tính cách. Cái nghiệp nhà binh đã ảnh hưởng rất lớn tới cách sống của ông. Nam nghĩ về cha: "Ông nói câu nào cũng dùng mệnh lệnh. Có lẽ cả khi ngủ với mẹ, bố cũng dùng mệnh lệnh"(29,341) Ông không cho phép bất kỳ ai "nói ý kiến riêng của mình". Ông là người có lập trường giai cấp nhưng cái lập trường ấy quá cứng nhắc, dẫn đến những lẫm lẫn trong cuộc sống. Với ông con người chỉ có hai loại rành mạch: ta và địch. Nếu không ở phía ta thì chắc chắn là địch chứ không thể tồn tại trung gian giữa hai bên. Chính cái nhìn xã hội theo hai cực đối kháng đã đưa ông đi vào vết xe đổ của lịch sử lúc nào ông không biết. Ông vội vàng quy kết gia đình thương gia Đức Cường là "kẻ thù không đội trời chung". Khi Hoàng Kì Nam mang về từ chiến trường chiếc áo - món quà ông bà Đức Cường gửi cho bà ngoại, Hoàng Kì Trung đã gay gắt quy kết: “Bố đã bảo không được dây dưa với những thành phần phức tạp. Nhà mình đâu cần những thứ này, bố giận dữ gằn từng tiếng, sao anh lại nông nổi vậy, đây đâu phải là tình cảm đơn thuần đâu anh ơi. Đằng sau đó là cả vấn đề quan điểm chính trị, là lập trường giai cấp anh hiểu chưa?”( 29,233). Hóa ra,  ông cũng giống như Trần Tăng trước kia một mực quy cho bố mẹ của ông là địa chủ. Nếu có khác chỉ là khác thời điểm và mức độ mà thôi. Như vậy, với ngòi bút già dặn, Dương Hướng đã không nhìn con người bằng định kiến. Những méo mó nhân tính chính là dấu ấn của một giai đoạn lịch sử nghiệt ngã. Thời đại vừa bi vừa hùng. Hoàng Kì Trung đã vô tình làm khổ những người thân xung quanh ông. Với con trai, với bạn gái của con…ông đều xét nét một cách khắt khe. Rốt cuộc khi tổng kết đời mình, ông thú nhận mình là kẻ thất bại: “Cả cuộc đời này là một chuỗi sai lầm. Có những sai lầm mình nhìn ra. Và có cả những sai lầm mình đã nhìn ra nhưng lại không dám thừa nhận”(29,352). Sai lầm thuộc về lịch sử, nhưng cũng có những sai lầm thuộc về cá nhân: “Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần bản lĩnh và sự tỉnh táo như khi bước vào một cuộc chiến tranh” (Nguyễn Minh Châu). Người lính trong tiểu thuyết hậu chiến phải nếm trải nỗi đau, ngộ nhận lầm lẫn khi thức nhận cuộc sống, về những đổi thay chóng mặt “Nỗi buồn chiến tranh” đã góp thêm sắc màu mới trong việc khắc họa chân dung người lính. Đó là gam màu trầm tối, xót xa nhưng chân thực và ám ảnh.

CHƯƠNG BA: Nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng.
So với nhiều cây bút nổi tiếng cùng thời, đóng góp của Dương Hướng về mặt nghệ thuật không có gì nổi bật. Ông dường như vẫn chủ yếu tuân thủ theo cách viết truyền thống, song đọc kĩ tác phẩm của ông vẫn cho thấy khát vọng làm mới tiểu thuyết trên một số phương diện.
1. Cốt truyện.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại hình tự sự và kịch” (24,99). Cốt truyện có vai trò quan trọng trong việc thể hiện các xung đột xã hội, các quan hệ giữa con người với con người. Tiểu thuyết truyền thống đề cao cốt truyện, do đó cốt truyện luôn giữ một vị trí quan trọng. Cốt truyện được xem là xương sống của tác phẩm, mang tính định hướng cho người đọc khá rõ. Cốt truyện không những giúp người đọc phiêu lưu trong một thế giới khác mà còn dẫn dắt họ, định hướng cho họ. Bích Thu trong bài: “Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới”: “Cốt truyện tiểu thuyết từ những năm đổi mới đến nay một mặt vẫn kế thừa và phát triển những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, mặt khác đã tiếp cận với tiểu thuyết hiện đại ở những nét tinh túy” ( dẫn theo Nguyễn Văn Long- Lã Nhâm Thìn).
Là cách thức tổ chức, triển khai các tình tiết, sự việc sao cho có đầu có cuối, tạo ra trường hoạt động cho các nhân vật, cốt truyện nghệ thuật trong mỗi tác phẩm thuộc mỗi thể loại văn học có những kiểu tạo dựng khác nhau. Aristote từng đề cập tới hai kiểu cốt truyện: cốt truyện được tạo thành bởi các sự kiện và hành động không gắn bó với nhau, cô lập nhau và cốt truyện dựa trên một hành động thống nhất, nhất quán.
Tiểu thuyết của Dương Hướng chủ yếu xây dựng nhân vật thông qua các hoạt động, các sự kiện, có đôi lúc nhà văn để cho nhân vật “nghĩ” nhưng không nhiều. Cuộc đời của Hạnh trong “Bến không chồng” được đan dệt bởi những sự kiện: tuổi thơ nhọc nhằn, lớn lên yêu Nghĩa chịu bao khổ đau, Nghĩa đi lính ở nhà chăm sóc gia đình nhà chồng với những hủ tục nặng nề đeo bám, li dị với Nghĩa và sống phóng túng, có con với Vạn thì Vạn lại tự vẫn…Nhân vật hành động là chủ yếu, cái thúc đẩy diễn biến cốt truyện lại chính là hành động của nhân vật, là chuỗi sự kiện xoay quanh cuộc đời nhân vật. Trong 3 tiểu thuyết cùng đoạt giải của Hội nhà văn Việt Nam 1991 thì “Bến không chồng” là tác phẩm có cốt truyện tương đối lỏng lẻo và đơn giản. Tất cả những mảnh đời trong bức tranh làng Đông như Vạn, Hạnh, Nghĩa…được miêu tả ở các chương mục dường như thiếu sự gắn kết với nhau. Người đọc hiểu tác phẩm thông qua sự chắp  nối các chi tiết sự kiện ít nhiều vụng về, không thấy sự dụng công của nhà văn.
Đến “Dưới chín tầng trời” ta thấy Dương Hướng đã tiến một bước xa trong việc tổ chức cốt truyện. Được coi là tiểu thuyết sử thi, nhiều sự kiện xuất hiện đồng thời, nhiều tuyến nhân vật cùng nhau tồn tại, “Dưới chín tầng trời” có cốt truyện đa tuyến. Ở đây, bên cạnh tuyến chính gắn với những nhân vật trung tâm như Nam, Trần Tăng, Đào Kinh, còn có tuyến nhân vật phụ được tạo ra bởi nhiều mạch rẽ như Tuyết, Vương, Mẹ con bà Cháo. Mỗi tuyến gắn với một số phận, một cuộc đời nhân vật. Nếu đem bóc tách, tháo rời từng tuyến, chúng  vẫn có khả năng đứng độc lập, tạo thành những câu chuyện riêng biệt. Và cốt truyện trong tác phẩm này cũng không bị cố định trong một hình thức nhất định. Dương Hướng đã xáo trộn trật tự cốt truyện, tạo độ mở để có thể dễ dàng đưa thêm vào tác phẩm một cốt truyện khác. Ví dụ như câu chuyện về cuộc đời long đong của mẹ con bà Cháo được lồng vào câu chuyện bôn ba kiếm sống của nhân vật Đào Kinh, câu chuyện về công cuộc cải cách ruộng đất, về tập thể hóa nông thôn gắn với số phận của Trần Tăng, Yến Quyên…
Thuộc phạm trù quan niệm nghệ thuật, cốt truyện nghệ thuật thể hiện tính năng động sáng tạo của nhà văn. Dương Hướng chưa thật sự có một sự cách tân mới mẻ và táo bạo như các nhà văn trẻ sau này như Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Thuận, Tạ Day Anh, Thuận…, nhưng tiểu thuyết của ông vẫn hấp dẫn bạn đọc bởi mỗi lần được kể lại là mỗi lần chúng được sáng tạo lại nhằm biểu hiện một tư tưởng, quan niệm nào đó.  Ý nghĩa của tác phẩm của ông không nằm ở bản thân cốt truyện mà nằm ở nghệ thuật kể chuyện, ở cách tổ chức, triển khai các chi tiết nghệ thuật.
Cốt truyện truyền thống về cơ bản là những cốt truyện khép kín. Cốt truyện trong những tác phẩm của Dương Hướng thường là một cấu trúc mở. Tác phẩm kết thúc nhưng không hề khép lại. Nó vẫn gợi cho người đọc những ám ảnh về những nỗi đau dang dở, những băn khoăn trăn trở, những dự định chưa thành. Vì thế, tạo cho độc giả cảm giác câu chuyện dường như vẫn còn đang tiếp diễn. Cái chết của Vạn kết thúc tác phẩm trong niềm xót thương vô hạn của người dân làng Đông khiến người đọc day dứt khôn nguôi về một hiện  thực đã qua của dân tộc. Biết bao người đã từng có số phận như Vạn? Biết bao người từng cả đời đeo đẳng ảo vọng để rồi chết trong cô độc. Không ai ở làng Đông hiểu rõ nguồn cơn về cái chết đầy bí ẩn của Vạn ngoài Hạnh. Nhưng Hạnh có thể làm gì khi chính cô cũng từng là nạn nhân của những tín điều ngu dại mà xã hội buộc vào số phận mình?
Trong “Trần gian người đời”, cái chết của Bức kết thúc tác phẩm là một sự giải thoát cho riêng anh, nhưng nó lại đặt ra dấu chấm hỏi cho số phận của Nga- vợ anh. Nga muốn quay lại với Bức, muốn bù đắp cho anh, được sưởi ấm trái tim hoang lạnh và chăm sóc cơ thể tật nguyền của anh nhưng Bức đã cự tuyệt, và chọn cái chết để đoạn tuyệt với tất cả. Nga sẽ sống một cuộc đời lặng lẽ đến trọn kiếp với bao day dứt khôn nguôi. 
Chọn hình ảnh con đường mới để kết thúc tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, Dương Hướng làm người đọc ám ảnh. Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cho rằng đó là một “triết lí vặt”. Có thể nó là một hình ảnh đã mòn cũ trong văn chương khi biểu tượng này đã được nhà văn Lỗ Tấn sử dụng quá đắc địa. Nhưng đặt trong tình trạng đậm đặc sự kiện của cuộc sống bộn bề sẽ thấy nhà văn muốn gửi gắm những điều lớn lao và thật ý nghĩa thông qua biểu tượng đó. Trong tác phẩm này, tác giả đã đặt ra biết bao con đường cho mỗi số phận? Có người lăn lộn từ nghèo khó mà thành đạt như Đào Kinh, có người sống một cuộc đời nhân đức nhưng lại có kết thúc bi thảm như gia đình thương gia Đức Cường, có người quyền uy lộng trời một đời nhưng khi chết lại không được quay trở về với mảnh đất quê hương như Trần Tăng…Các nhân vật trong ít nhiều đều gánh trên mình những bi kịch của thời đại. Vì thế, một con đường bằng phẳng, tươi sáng là một khát vọng vô cùng chính đáng và đáng được trân trọng. Dương Hướng không triết lí vặt. Những điều nhà văn đặt ra mang chiều sâu nhân đạo của một cây bút nặng lòng với đời.
2. Nhân vật.
Cùng với cốt truyện, nhân vật là một yếu tố không thể thiếu của tiểu thuyết. Nhân vật là nơi nhà văn thể hiện quan niệm về con người và thái độ đối với hiện thực. Trong tiểu thuyết truyền thống, nhân vật nhiều khi trở thành cái loa phát ngôn của tác giả. Sau đổi mới, cùng với sự thay đổi quan niệm về nhà văn, về hiện thực và công chúng, quan niệm về nhân vật có nhiều chuyển biến đáng kể. Nhân vật được xem xét trong một cái nhìn đa chiều, góc cạnh hơn và tồn tại như một cá thể độc lập với tính cách da dạng, phức tạp phá vỡ tính đơn tuyến một chiều. Nhân vật hiện lên trong một trạng thái lưỡng hóa: thiện - ác, tốt - xấu lẫn lộn. Các nhà văn quan tâm hơn tới nhiều khía cạnh: tình yêu, tình dục, các bi kịch và số phận cá nhân.
Vạn trong “Bến không chồng” là một điển hình. Một người chiến sĩ với niềm tin và niềm kiêu hãnh về một quá khứ oanh liệt, hào hùng nơi chiến trường trở về, Vạn luôn cố gắng phấn đấu sống như một biểu tượng cho cả làng Đông: “Cứ nhìn chú đây mà sống”. Nhưng trong tiềm thức sâu xa, Vạn không tránh khỏi cảm giác cô độc: “Nguyễn Vạn cứ ngỡ như mình được sang một thế giới khác. Tâm tính Vạn cũng thay đổi. Về đêm Nguyễn Vạn cảm nhận thấy nơi đây hoàn toàn hoang dã không một ai trên đời này còn biết đến Nguyễn Vạn. Người làng Đông hầu như đã quên mất Nguyễn Vạn…”(30,277). Vạn nuối tiếc cái thời huy hoàng đó. Vạn đau khổ vì không ai còn nhớ tới Vạn ngày xưa, ngực lấp lánh huân chương quay trở về. Và ngay chính Vạn cũng có lúc quên mình từng là một quân nhân: “Ngày tháng trôi đi. Giờ đây nhiều khi Vạn quên béng mất mình đã từng là một quân nhân. Cái thời oanh liệt trên chiến trường Điện Biên và cái thời đêm đêm một mình vác súng ra nằm trên trốc lò gạch săn máy bay Mĩ bay thấp đã xa lắc xa lơ, nhưng có lúc nào nghĩ đến, nó vẫn sáng lóe trong tâm trí Vạn như ngôi sao trong trời đêm. Kỉ vật duy nhất của thời ấy còn lại là những tấm huân chương nằm im lìm trong chiếc túi bạt treo ở góc nhà và một chiếc áo lính đã rách nhưng Vạn vẫn cố giữu lấy nó vá đi vá lại không biết bao nhiêu lần. Đi đâu Vạn cũng thích khoác chiếc áo lính ấy như muốn nhắc nhở người làng Đông hãy nhớ tới Vạn là ai…”(30,278). Niềm tin từng khiến Vạn quên đi hạnh
 phúc cá nhân, hi sinh mù quáng cho nó bây giờ đang có nguy cơ lung lay. Không phải từ sự đổi thay trong nhận thức của người làng Đông mà ngay trong nhận thức của Vạn. Vạn cố níu kéo cái quá vãng ấy trong cảm giác chua xót trào dâng. Lí tưởng cả đời Vạn theo đuổi giờ đây dường như quay trở lại cào xé, phản bội Vạn. Vạn cô độc. Vạn khổ sở vì sự hụt hẫng, hoang mang. Đã có lúc Vạn trở thành biểu tượng sống của cả dân làng Đông thì giờ đây Vạn như đi bên lề cuộc đời vậy. Không ai nhớ tới Vạn, không ai cần Vạn. Và chỉ cho tới lúc ấy Vạn mới chợt nhận ra Vạn cần một gia đình xiết bao: “Đến bây giờ Vạn mới thấy tiếc mình không lấy vợ sớm”(30,277). Nhưng đó chưa phải là nỗi khổ sở nhất đối với Vạn. Nỗi khổ hàng ngày anh phải đấu tranh, vật vã mình mẩy với  nó chính là lúc phần “con” trong Vạn thức dậy. Cái phần bản năng trước đây Vạn cố gắng nguôi quên trong bề bộn công việc làng xóm giờ đây thức dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết làm khổ anh. Niềm tin không đủ sức vực Vạn dậy. Anh tự thấy mình trở nên hư hỏng, sa đọa. Đó là một cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng. Cuộc đấu tranh Vạn tự tạo nên bằng những tín điều khô cứng. Cái chết của Vạn là một sự trốn chạy -  trốn chạy, chối bỏ những điều đẹp đẽ nhất mà tạo hóa ban cho con người là tình yêu và hạnh phúc. Khối ý chí rắn đanh của Vạn làm người đọc vừa giận vừa xót thương. Lịch sử và định kiến đã nhào nặn một lớp người như thế. Nhà văn dường như đã đào bới vào phần ngóc ngách sâu xa nhất của lòng người để phơi bày một thực trạng cần được nhận thức lại . Đó là điều mới mẻ nhà văn mang lại cho người đọc.
Trần Tăng là nhân vật được Dương Hướng chăm sóc khá kĩ lưỡng trong tác phẩm “Dưới chín tầng trời”.  Người làng Đông nói riêng, dân cả tỉnh nói chung lâu nay quen có cảm giác động đến Trần Tăng là động đến một quyền uy tuyệt đối. Chuyện riêng của ông ta như thuộc về “thâm cung bí sử”. Nhưng Dương Hướng đã nhìn ra bản chất phức tạp của nhân vật. Trần Tăng là một con người đầy quyền lực. Quyền lực này được thể hiện rõ khi Trần Tăng về làng Đoài thực hiện công tác cải cách ruộng đất: "Sếp đội Trần Tăng như có phép thần thông khiến cả làng đều sợ. Từ lũ trẻ con đến cụ già lụ khụ nhìn thấy thằng Trần Tăng là khúm núm dạ vâng, không dám cả nói to".  Đến cả loài vật cũng phải sợ uy quyền của Trần Tăng: "Loài chó hung dữ thế, hễ nhìn thấy Trần Tăng là cụp đuôi lủi mất dạng" (29,50). Con đường củng cố quyền lực của ông ta gắn liền với những biến động lịch sử: cải cách ruộng đất, phong trào Hợp tác hóa ở nông thôn, cuộc chiến tranh biên giới, và cả khi đất nước bước thời kỳ đổi mới... đã kéo theo biết bao nhiêu số phận, bao nhiêu con người. Những nơi ông ta đi qua đều bị: "phá tan nền móng gốc rễ làng quê", đời sống của người dân trở nên nghèo khổ đến nỗi có người phải bỏ làng mà đi như mấy mẹ con bà Cháo, như Đào Kinh. Ngay cả khi bỏ làng ra đi, họ vẫn không thoát khỏi bàn tay đầy quyền lực của Trần Tăng. Vì ông ta mà có biết bao nhiêu gia đình phải tan nát, vợ phải xa chồng, mẹ phải xa con..., Đào Kinh thì mấy lần tưởng đổi đời nhờ làm ăn buôn bán nhưng rồi lại trắng tay, mấy mẹ con bà Cháo đang làm ăn ổn định ở vùng giáp biên giới bỗng trở nên bơ vơ mất trắng những gì mà bao nhiêu năm làm lụng chắt chiu đến nỗi phải dùng đến cái “vốn tự có” để nuôi thân. Không chỉ thế, Trần Tăng còn làm mưa làm gió trong các affe kinh tế. Ông ta hậu thuẫn cho những kẻ như Đào Kinh và Măng đã trở thành những mạnh thường quân được xưng tụng. Trần Tăng sống sa đọa, đạo đức "nhếch nhác", đĩ bợm (Hoàng Ngọc Hiến). Thói mê gái đã ăn sâu vào máu Trần Tăng và trở thành gen trội trong con người ông ta. Mặc dù đã có vợ, nhưng chỉ tính ở làng Đoài, ông ta còn liên quan tới ba người đàn bà: Yến Quyên, Cam, và Tuyết. Còn trong cuộc đời đầy danh vọng của mình thì không thể biết được có bao nhiêu cô gái đã ngã vào lòng ông ta. Trần Tăng như một "con quỷ dâm dục", một vết đen trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Nhưng cách lý giải nhân vật này của Dương Hướng rất độc đáo: "cả ba người đàn bà làng Đoài đã tạo nên tính cách Trần Tăng thâm trầm và dữ dội, đắm đuối và si mê"(29,228). Như vậy, nhà văn không làm cho nhân vật này trở thành tên ác quỷ mà trong những mối quan hệ bất chính đó ta vẫn thấy thấp thoáng ở con người này một chữ tình. Ví dụ như mối quan hệ với Tuyết, ban đầu cũng là ham muốn về xác thịt, nhưng sau đó, Trần Tăng thấy quý mến Tuyết, muốn khích lệ Tuyết phấn đấu "Bao kinh nghiệm thu lượm được trong những năm tháng qua, Trần Tăng muốn truyền lại cho Tuyết"(29,228) để cô trở thành một "người đàn bà mạnh mẽ, có trình độ học vấn và có cả quyền lực..."(29,226). Trong thực tế, Trần Tăng đã giúp cô rất nhiều trên con đường công danh. Không những thế, làng Đoài - nơi mà ông ta đã gây ra bao nhiêu oan trái cũng là nơi ông "gửi gắm tâm lực hơn cả cho mảnh đất và con người" (29,226). Ông ta bị coi là một kẻ cơ hội, kẻ tha hóa, sa đọa, giỏi đầu cơ chính trị, nhưng bên cạnh đó ta cũng thấy ông ta là con người bi kịch, cô đơn, lạc lõng. Tuy là có quyền lực tột đỉnh trong tỉnh, đi đến đâu cũng được trọng vọng, nhưng ông ta lại cảm thấy không ai thực sự đáng tin, không ai yêu thương mình thực lòng. Là cán bộ cấp cao khi đi ra ngoài ai cũng phải khiếp sợ nhưng khi về nhà lại bị bố đẻ và người vợ coi thường. Những nơi ông ta đi qua chỉ để lại trong lòng dân nỗi oán ghét. Chính Tuyết đã “kết án” Trần Tăng: “Chiến công đầu tiên, cũng là lỗi lầm đầu tiên của ông là giết chết ông bà Hoàng Kì Bắc, phá tan gia tộc Hoàng Kì, phá tan chùa Đông, phá tan Đình Đoài…Ông đã biến người nông dân cần cù thành lũ người lười nhác làm ăn dối trá, phá tan nền móng gốc rễ làng quê, để dân tình đói rách phải bỏ làng mà đi như Đào Kinh, như mấy mẹ con bà Cháo. Ông có biết ông đã đẩy hai thằng con rể người Tàu của bà Cháo phải bỏ về bên kia để hai đứa con gái bà ta phải góa chồng tới bây giờ?(...). Có lẽ chúng căm thù ông tới tận xương tủy ”(29,470). Trần Tăng biết những việc mình làm của sai trái nhưng ông ta vẫn phải làm vì nếu ông ta không làm thì người khác làm còn để lại hậu quả nghiêm trọng hơn. Như vậy, giữa cái thực tại hỗn loạn, phi lý, ông ta hóa ra vẫn còn chút ít lương tâm. Thật hài hước mà cũng thật đáng buồn! Cuối đời, Trần Tăng càng thấm thía nỗi buồn. Khi sắp gần đất xa trời, con người ta thường quay đầu về với tổ tiên, làng xóm, nhưng Trần Tăng không dám quay đầu trở lại vì những hậu quả mà ông đã để lại trên mảnh đất quê hương. Làng Đoài, nơi ông chỉ "đi qua", một thời gian ngắn nhưng vẫn vướng duyên nợ, người dân cũng chỉ thấy ông là một cán bộ tha hóa tệ hại. Ông ta đột tử trong một cơn sám hối, ăn mày nén nhang thương hại của người dưng. Như vậy có thể nói, bi kịch ở nhân vật Trần Tăng sâu sắc hơn của những nhân vật khác vì ông ta nhận thức được nó. Qua những phút sám hối của nhân vật ở cuối tác phẩm, ta thấy rõ sự vận động phức tạp trong con người Trần Tăng. Giữa bao mưu mô toan tính xấu xa, nhà văn vẫn nhìn ra ở ông ta chút tình người còn sót lại. Nhân vật không bị biến thành bức biếm họa đơn giản mà thực sự có đời sống riêng, sắc nét, sinh động. Đó là chỗ cho thấy tư duy nghệ thuật của Dương Hướng khá hiện đại. Ông không nhìn con người một chiều, không “bôi đen” hay “tô hồng” hiện thực mà nhìn thấy tính đa chiều kích của chúng. Dù thế giới hiện lên trong “Dưới chín tầng trời” là thế giới đầy phi lý, không thể kiểm soát nhưng nó vẫn phảng phất triết lý sâu xa của người phương Đông: "thấy Dương trong Âm, cái Sống trong cái Chết, cái Dũng trong cái hèn, Thiện trong Ác, Tích cực trong Tiêu cực”. Một tinh thần khoan hòa, cởi mở rất hợp với thời đại. Nhân vật trong “Dưới chín tầng trời” rất đa dạng với đầy đủ những tầng lớp khác nhau. Đa số nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp, không dễ xếp vào loại người tốt hay xấu. Trong mỗi nhân vật đều có sự đan xen giữa tốt - xấu, thiện - ác, dũng - hèn... chỉ khác nhau ở mức độ biểu hiện mà thôi. Cái ranh giới giữa chúng rất mong manh và mơ hồ. Nó làm cho nhân vật của Dương Hướng trở nên gần gũi với con người hơn, thực hơn. Trong 500 trang sách với khoảng 100 nhân vật đan xen nhau đi đi về về, hiện thực của cuộc sống được phơi bày một cách chi tiết, tỉ mỉ qua những ngã rẽ của từng số phận, qua những cơn chấn động của thời đại, để rồi khi nhìn lại người đọc bất ngờ nhận ra khả năng khái quát lịch sử tuyệt vời của tác giả: cả một thời kì đầy biến động, dữ dội và khó hiểu, làm chao đảo bao nhiêu số phận, nhào nặn nên bao nhiêu giá trị thực và ảo mà ảnh hưởng của nó sẽ còn rất lâu dài. Nhìn một cách tổng quát thì hầu hết nhân vật đều là những số phận thấm đẫm bi kịch gây nên bởi những lầm lạc lịch sử như gia tộc Hoàng Kỳ, gia đình thương gia Đức Cường, Đào Kinh, Trần Tăng, Tuyết,... Mỗi nhân vật một bi kịch khác nhau soi sáng cho một nhân vật trung tâm bí ẩn: Lịch sử. Mặc dù thế, khi gấp trang sách lại, cái dư ba để lại trong lòng người đọc không phải là cảm giác bi quan mà là niềm tin vào con người, vào tình người ấm áp vẫn âm thầm chảy suốt tác phẩm. Dù những tai biến lịch sử dữ dội có thể làm con người đôi khi bị méo mó dị dạng, nhưng con người luôn cố gắng vươn lên, không ngừng đấu tranh với cái ác, cái xấu để cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và đặc biệt cái hạt giống nhân tính trong mỗi con người luôn luôn trường tồn bất diệt. Ta có thể thấy rõ điều này qua các nhân vật như Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Hoàng Kỳ Nam, Đào Kinh, Đào Vương, Thương Huyền….
3. Điểm nhìn trần thuật.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, điểm nhìn là: “Vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn bởi nó thể hiện sự chú ý quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn” ( 24,113). Điểm nhìn là vị trí mà nhà văn đứng quan sát thế giới và phản ánh lại trong tác phẩm. Điểm nhìn mang tính cá  nhân thể hiện cách nhìn nhận, quan điểm riêng của nhà văn về thế giới và con người. Một tác phẩm muốn có phong cách độc đáo phụ thuộc khá lớn vào cái nhìn của người nghệ sĩ. Lựa chọn được một chỗ đứng thích hợp mà ở đó quan điểm, tư tưởng của mình được bộc lộ trọn vẹn không phải ai cũng có khả năng làm được. Điều đó thuộc vào kĩ thuật, tài năng của người cầm bút.
Tiểu thuyết của Dương Hướng thường có sự đan xen điểm nhìn. Mỗi nhân vật như một điểm nhìn riêng, một ý thức riêng. Điều đó cũng có nghĩa đồng tác phẩm có khuynh hướng đối thoại. Việc tăng cường nhiều điểm nhìn trong một tác phẩm thể hiện ý thức cách tân của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, phù hợp với xu thế dân chủ của đời sống văn học. Nhà văn phá vỡ thế đơn âm của tiểu thuyết truyền thống bằng cách gia tăng điểm nhìn. Hiện thực tác phẩm từ một chiều trở nên nhiều chiều hơn, góc cạnh hơn.
 Lấy điểm nhìn nhân vật làm điểm tựa, nhà văn sẽ dễ dàng thâm nhập được vào đời sống nội tâm, phơi bày ý thức bên trong của nhân vật, từ đó mà chân dung, tính cách nhân vật hiện ra xác thực, rõ ràng. Trao chức năng tự bộc lộ cho nhân vật, mượn giọng nhân vật để trần thuật, tác phẩm tạo được hiệu quả nghệ thuật khách quan. Người kể chuyện ở đây tuy vẫn giữ thái độ điềm nhiên, lãnh đạm, lặng lẽ dõi theo nhân vật bằng con mắt của người đứng ngoài chứng kiến, với giọng lạnh lùng nhưng người đọc vẫn nhận biết được tâm tư tình cảm của anh ta, theo dõi được những diễn biến sâu xa trong nội tâm anh ta.
Trong “Bến không chồng”,  người kể chuyện ở ngôi thứ ba đang phân tích nội tâm của Vạn những ngày cô độc bên vườn ươm sau cái đêm giông bão bên Hạnh: “Qua cái đêm giông bão của cuộc đời, Nguyễn Vạn không còn dám nhìn vào bất cứ ai ở làn Đông. Vạn tự thấy xấu hổ với cả những đứa trẻ con tí teo. Ngày đêm thu mình trong ngôi nhà trên vườn ươm với bao ý nghĩ vò xé trái tim Vạn. Bây giờ Vạn mới tỉnh ra qua cơn say và thấy hối tiếc đã đánh mất đi tình cảm thiêng liêng trong sáng ở cả hai mẹ con Hạnh, và tự vùi dập đi niềm kiêu hãnh của mình với dân làng. Vạn tự xỉ vả mình và thấy ngực nhói đau muốn cầm thanh củi chọc thẳng vào bụng. Nhục! Nhục nhã quá! Tồi tệ hơn cả lão Xung và mụ Hơn. Thế mà bao nhiêu năm nay, trong suốt cả cuộc đời, Vạn cứ đinh ninh tin tưởng vào phẩm giá của mình. Thế là hết! Vạn tưởng tượng rõ thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đọa, hủy hoại cả cuộc đời tiết hạnh của Hạnh” (30,282).
     Đoạn kể trên có sự luân phiên điểm nhìn, vừa là điểm nhìn của người kể chuyện, vừa là điểm nhìn của nhân vật chính. Đôi lúc điểm nhìn của nhân vật và người kể chuyện cùng đan quyện rất khó phân tách. Phần cơ bản được trần thuật từ ngôi thứ ba khách quan, nhưng có lúc lời trần thuật bất ngờ đổi giọng và người đọc nhận ra sự lên tiếng của chính nhân vật – đối tượng được trần thuật. Những lời tự xỉ vả của Vạn qua hành động tội lỗi với Hạnh cho người đọc thấy một tâm trạng hoang mang, đau đớn đến tột cùng của Vạn “Nhục! Nhục nhã quá! Tồi tệ hơn cả lão Xung và mụ Hơn…Thế là hết!” - Đó là lời nhân vật tự nói về mình. Sự di chuyển luân phiên điểm nhìn bên trong và bên ngoài như vậy đem lại nhiều khả năng chiếm lĩnh con người hơn.
Trong tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, điểm nhìn bên trong được sử dụng nhiều hơn và do đó, tính cách nhân vật cũng được bộc lộ trọn vẹn, đa dạng hơn. Nhân vật Trần Tăng được nhà văn chăm chút khá kĩ lưỡng và bức chân dung về nhân vật cũng dần được hoàn thiện khi thì qua điểm nhìn của người kể chuyện khách quan: “Sếp đội Trần Tăng như có phép thần thông khiến cả làng đều sợ. Từ lũ trẻ con đến cụ già lụ khụ nhìn thấy thằng Trần Tăng là khúm núm dạ vâng, không dám cả nói to" ; khi thì thông qua điểm nhìn của các nhân vật: điểm nhìn của Nam: “một nhà chính trị tài ba, một cán bộ năng động, một tay đàn ông đa đoan, đa tình láu cá khôn vặt và cả lưu manh nữa”(29,319); điểm nhìn của Yến Quyên: “anh là người đàn ông đam mê nhục dục và đầy tham vọng công danh…Đó là cái gien đàn ông rất trội của anh ” (29,193); điểm nhìn của cha đẻ Trần Tăng: “Anh là thằng lãnh đạo không có lương tri, chỉ giỏi mưu kế dụ dỗ dân lành…Người ta vừa sợ lại vừa khinh anh”(29,270); điểm nhìn của người dân làng Đoài “Hắn đã làm khổ dân hại nước mà cứ ta đây là cán bộ cao cấp. Nếu Đảng mình không có loại cán bộ như hắn thì đất nước bây giờ tiến xa rồi” (29,461); điểm nhìn của Tuyết: “Ông có một uy quyền mà mọi người không có. Ông có một thứ hào quang tỏa sáng chói lòa…Những lỗi lầm to lớn, những trò ma mãnh của ông, những mưu mô quyền lực chỉ là tai nạn của thời đại”(29,468)…
Như vậy chọn kể chuyện từ điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện kết hợp với điểm nhìn bên trong, luân phiên điểm nhìn, nhà văn bên cạnh việc dựng dậy một cách khách quan chân dung nhân vật mà còn thể tinh thần dân chủ, tôn trọng bạn đọc. Nhân vật qua điểm nhìn bên ngoài có khác với chính nó qua điểm nhìn bên trong: “Cô tưởng tôi không biết những việc làm tội lỗi của mình sao? Tôi biết hết, biết ngay từ khi mình đang làm. Nhưng tôi không làm thì thằng khác cũng sẽ làm, mà có khi còn tệ hơn tôi(…). Tôi cảm nhận thấy mình cũng thật là tệ..” (29,470) .
Việc thường xuyên di chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong, giúp cho cùng một vấn đề nhưng được soi chiếu ở nhiều bình diện. Chẳng hạn như chuyện xã Quyết Thắng quyên góp, nghe tiếng loa xướng danh những nữ thương gia hảo tâm trong đám đông thì có những lời qua tiếng lại:
“- Làng mình thế mà oai thật. Toàn những người tài giỏi.
-         Giỏi đánh đĩ thì có, mụ Còn thì thầm vào tai cô Lùn
-         Con mụ này rõ bạc, nó đánh đĩ nhưng có lòng, chả hơn cả đời chả ai moi được ở mụ một xu
-         Tao nghèo nhưng tao trong sạch” (29,466).
Nhu thế là cả hai cách sống “đánh đĩ nhưng có lòng” và “trong sạch nhưng chẳng ai moi được một xu” đều được phán xét bình đẳng.
Xung quanh vấn đề thời thế và cách ứng xử, mỗi nhân vật góp vào một kinh nghiệm riêng. Khi Mây góp cho xã một khoản tiền lớn được hoan hô nhiệt liệt. Trong đám đông có lời gièm pha: “Sao bảo có thời nhà nó cũng khốn khó lắm. Nghe nói mấy chị em nó phải đi làm gái bao”(29,465). Lập tức có người biện bạch: “Cái thời ấy cả nước khốn khó đâu riêng nhà nó”. Hoàng Kì Trung suốt một đời tận tụy trong sự nghiệp lên đến cấp tướng thổ lộ với con trai kinh nghiệm làm sao sống sót được: “…phải nhận biết và chịu đựng cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống”(29,346). Và để bào chữa cho Trần Tăng, một cán bộ lãnh đạo cao cấp, Tuyết cho rằng: “những lỗi lầm to lớn của ông, những trò ma mãnh của ông, những mưu mô toan tính quyền lực của ông hằng nào muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy làm con người ta cứ hèn đi”(29,467). Một nhân vật khái quát: “…đã sinh ra trong cõi đời này chẳng thằng nào muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy con người ta cứ hèn đi”(29,469).
Nhờ việc đa dạng hóa điểm nhìn, các sự kiện, các vấn đề được đặt ra chân thực và sinh động hơn rất nhiều. Chân dung nhân vật qua đó cũng được khắc họa một cách sắc nét hơn.
Nhìn chung tiểu thuyết Dương Hướng chủ yếu sử dụng điểm nhìn bên ngoài làm cho thế giới hiện lên dưới cái nhìn khách quan, những dấu ấn chủ quan bị giảm thiểu. Nhà văn như người gợi mở để hiện thực tự lên tiếng. Điểm nhìn bên ngoài là lối kể khách quan, tái hiện trực  tiếp hiện thực, nhờ đó, ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ của nhân vật hiện lên tự nhiên. Người đọc có lẽ rất khó quên cái dáng điệu thô kệch, cục mịch, lầm lũi của Bức trong “Trần gian người đời”, không quên được không khí gia đình Bức lúc nào cũng ngột ngạt, căng lên như dây đàn bởi tất cả đều tuân thủ luật lệ lão Kình đặt ra, không quên được cơn bão cải cách ruộng đất khiến bao số phận đầm đìa nước mắt.
Đặt điểm nhìn bên ngoài, người kể chuyện cố tình “lánh mặt”, “giữ bí mật” nhiều tình tiết của tác phẩm, kích thích trí tưởng tượng của người đọc thông qua việc tuyển lựa để đưa vào tác phẩm những chi tiết xác thực. Theo quan niệm của nhà nghiên cứu văn học Anh P.Lubbock thì đây là hình thức nghệ thuật hoàn hảo nhất trong nghệ thuật tự sự: “Nghệ thuật tiểu thuyết chỉ bắt đầu khi nhà tiểu thuyết ý thức được câu chuyện như là cái chất liệu phải được chỉ ra, cần phải được trình bày như thể bản thân nó tự kể”.
 Tuy nhiên Dương Hướng không chỉ vận dụng điểm nhìn bên ngoài, mà còn biết luân chuyển điểm nhìn vào bên trong , sự kết hợp linh hoạt các điểm nhìn trần thuật ấy giúp nhà văn  vừa có khả năng bao quát được muôn mặt của đời sống hiện thực, vừa có khả năng  mổ xẻ, bóc tách, lí giải chiều sâu tâm lí, thế giới nội tâm bí ẩn, phức tạp của con người. 
4. Giọng điệu.
Tiểu thuyết hiện đại nảy mầm trên một hiện thực có nhiều biến thiên, đứt gãy, thậm chí đảo lộn nhiều giá trị cũ. Con người cảm thấy cô đơn, lạc loài và hoài nghi . Chính cảm thức đó đã chi phối tới giọng điệu của tiểu thuyết hiện đại. Chúng thường được kể với giọng điệu trầm tĩnh, khách quan của một người kể chuyện tự giới hạn vị trí của mình trong việc kể lể, không kiêm thêm vai trò giải thích bình luận.
Giọng điệu tác phẩm là một trong những yếu tố quan trọng làm nên hình tượng người kể chuyện. Giọng điệu chính là sự bộc lộ thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Trong khi trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chứ không đơn điệu một giọng. Tiểu thuyết hiện đại được đề cao ở đặc tính đa thanh, nhiều bè, nhiều giọng điệu. Tạo được giọng điệu đa dạng, phong phú là một bước trưởng thành trong tư duy nghệ thuật. Turghenev đã coi giọng điệu là một tiêu chuẩn để xác định tài năng của người nghệ sĩ: “Cái quan trọng trong tài năng văn học (…) là cái giọng nói riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác” (34,90). Nguyễn Văn Long cũng nhận định: “Trong xu thế hội nhập, sự giao lưu với đời sống văn hóa và văn học thế giới ngày càng mở rộng, cùng với những nhu cầu nội tại của đời sống văn hóa tinh thần trong nước, văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh, đa giọng điệu” (43,169).
Không phải tác phẩm nào của Dương Hướng cũng nổi trội về giọng điệu nhưng nằm trong dòng mạch vận động của Văn học Việt Nam sau 1975 và có ý thức đổi mới nội dung hiện thực nên giọng điệu tiểu thuyết của ông nhìn chung cũng có những sắc thái mới. Theo chúng tôi mấy sắc giọng sau đây là chủ yếu:
4.1. Giọng điệu buồn thương.
Dễ nhận ra trong hầu hết các tiểu thuyết của Dương Hướng nói về số phận bi kịch của những con người chịu sự tác động sâu sắc của lịch sử. Số phận của những người phụ nữ như Hạnh, Dâu, Thắm, Cúc…trong “Bến không chồng” dở dang, đau khổ; số phận của những người lính như Vạn, Vương, Bức…đầy ngang trái. Tất cả hiện lên trên trang văn với một giọng thấm đẫm buồn thương: “Chú Vạn hồi này hầu như không bước ra khỏi mảnh vườn ươm. Hôm ra thăm chú, Nghĩa sững sờ nhìn lên gương mặt chú gầy xọm đi, tóc bạc trắng như một ông lão. Còn Thành suốt đời phải mang bộ mặt dị dạng không vợ con. Cúc ngày xưa đùng đùng đem trả trầu cau Thành, đã tưởng lấy được đám khá hơn, ai ngờ vơ bèo vặt tép làm lẽ ông Ba Chương. Dâu ngày xưa lem lém vậy, giờ lại lấy cửa phật làm vui. Đến như cái Thắm rực rỡ nhất nhì làng Đông bây giờ vẫn vò võ nuôi con một mình. Còn mẹ Hạnh thì gần như câm lặng…”(30,290).
Những ước mơ rất chính đáng và cũng rất bình dị của những phận người đã bị đập nát bởi sự tác động dữ dội của lịch sử. Không xót thương sao được khi số phận họ khiến ông trăn trở suốt cả đời cầm bút. Những từ chỉ trạng thái “sững sờ”, “ai ngờ”, “giờ lại”, những từ cảm thán “đến như” , “suốt đời phải”…làm thành âm hưởng xót xa.
Buồn thương trở thành giọng điệu chi phối chung của tiểu thuyết “Trần gian người đời”: “Từ bao năm nay nơi đây đã hứng chịu không biết bao nhiêu bom pháo của giặc Mỹ trút xuống mà vẫn không sao xóa nổi những dải nhũ đá cứ lấp lánh trong vòm hang. Chúng như những dòng nước mắt cô đơn và nỗi buồn thương mênh mông của núi Đợi. Phải chăng đó cũng là dòng nước mắt của những người mẹ, người vợ đang ngày đêm trông chờ chồng con nơi chiến trận trở về” (31,224
Trong một đoạn văn ngắn, nhà văn sử dùng khá nhiều những từ tình thái “không biết bao nhiêu”, “không sao xóa nổi”, “phải chăng”, kèm theo đó là những câu chữ đầy hình ảnh “những dòng nước mắt”, “nỗi buồn thương mênh mông”, “ngày đêm trông đợi”…gợi bao xót xa ngậm ngùi.
Ngồn ngộn chất sống với bao sự kiện, bao biến cố, “Dưới chín tầng trời” cũng có những trang văn trĩu buồn khi nói đến số phận của những người phụ nữ như Thương Huyền, Mai, Yến Quyên…Đây là cuộc sinh nở trong dằn vặt, giằng xé lương tâm của Thương Huyền:
“ Đã sắp đến ngày con nàng chào đời. Nó đòi ra đời để trừng phạt nàng, trừng phạt thế giới này, thế giới của những người đang sống và cả những người đã chết(…). Cơn đau cuộn lên dữ dội. Căn phòng trắng lóa. Những gương mặt nhập nhòa. Nàng gào thét trong tuyệt vọng. Chúa đã nghe thấy lời nàng. Chúa biết hết. Chúa cứ trừng phạt con đi! Con lạy Chúa lòng lành…! Con đã âm thầm chịu đựng nỗi đau đớn này từ lâu lắm. Tiếng khóc trẻ thơ vỡ òa không gian ! Mầm sống chào đời. Nàng chìm trong cơn mê phiêu du nơi hoang mạc xa xăm của kí ức”(29,174).
Cuộc vượt cạn không chỉ có nỗi đau về thân xác mà còn có cả nỗi đau về tinh thần khi Thương Huyền mang mặc cảm là kẻ giết cha của con mình. Không ai biết việc làm khủng khiếp của nàng. Thương Huyền chỉ còn biết cầu mong Chúa tha tội cho nàng. Phút giây đứa trẻ chào đời là phút giây nàng sám hối. Dù nàng làm việc đó vì nhiệm vụ chăng nữa thì suốt đời Thương Huyền cũng không thoát khỏi ám ảnh nặng nề là kẻ giết người – giết cha của chính con nàng. Tiếng kêu thầm của nhân vật, lời miêu tả của người kể về cơn đau, sự tuyệt vọng, không gian nhòe đi bởi những kí ức khủng khiếp ùa nhau gọi về…làm thành giọng xót thương đến nghẹn ngào. 
Giọng buồn thương chi phối trong hầu hết các tiểu thuyết của Dương Hướng. Buồn thương nhưng không bi lụy. Vẫn nhận ra trong trang văn của ông niềm lạc quan, niềm tin vào cuộc sống. Quả là “sự sống chẳng bao giờ chán nản”.
     4.2. Giọng điệu tự nhiên suồng sã, hài hước.
                  Nội dung của hầu hết các tiểu thuyết của Dương Hướng đều xoay quanh cuộc sống ở nông thôn, giọng văn của ông cũng bình dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói của người dân lam lũ suốt đời chân lấm tay bùn vậy. Cái nhìn dân chủ, cởi mở về hiện thực ấy, thái độ hoài nghi, phê phán những bất cập, phi lý đem đến giọn điệu tự nhiên suồng sã. Điều đó thể hiện ngay qua cách gọi tên nhân vật. Lặp đi lặp lại trong tiểu thuyết của ông là những cái tên rất mộc mạc: lão Khi, lão Kình, cô Lùn, nàng Cam quýt mít dừa… và cái cử chỉ, giọng điệu của họ hiện lên cũng rất hồn nhiên, chân thật. Hãy lắng nghe một mẩu đối thoại của họ:
“- Cô Ngọc Lan là con cái nhà ai vậy?
-         Cái bà này thật là…Cô ấy là con gái nhà văn Hoàng Kì Nam mới dẫn về giới thiệu với gia đình hom kia đấy thôi. Mẹ nó là người đàn bà ngồi cạnh đấy. Đẹp như tiên thế kia.
-          Thảo nào Hoàng Kì Nam nó bỏ cô chủ tịch xã cũng phải.
-          Nghe đâu Hoàng Kì Nam léng phéng với cô ta từ ngày còn chiến tranh.
-         Văn nghệ sĩ mà.
-         Ôi, chẳng cứ văn nghệ sĩ, mình mà vớ được người đẹp như Kiều thế kia cũng sướng cả một đời khớ khớ…Lão Nhinh nghe lỏm được câu chuyện của hai bà ngồi cạnh, cười ngặt ngẽo.
-         Đồ dê cụ, mụ Sót nhà lão để cho chó nó gặm à?
-         Ôi sướng nhỉ? Nghe các bà nói chuyện hay hơn phim, chúng ta cạn với nhau một chén nữa nào. Chả mấy khi cánh mình được thỏa thích thế này, hớ hớ…uống đi, rượu chứ có phải nước lã đâu.
-         Uống thì tha hồ uống, nhưng ông đã xì ra cho các cháu đồng nào chưa?
-         Tao móc đâu ra tiền mà cho cái lũ trẻ ranh làng này, toàn loại ba que mách qué, học thì dốt như bò lại tinh tướng. Đấy nhìn mấy đứa con nhà Miêu, con nhà Thoại vậy có ít chữ chạy chọt vào được cơ quan nhà nước về làng vênh cái mặt lên không thèm chào hỏi ai. Mẹ kiếp, học hành như vào loại ấy được vào cơ quan nhà nước cũng lại tìm cách khoét dân thôi”(29,466).
  Nhà văn sử dụng phổ biến hệ thống từ ngữ thông tục quen thuộc hàng ngày: Đẹp như tiên, đồ dê cụ, mụ Sót nhà lão để cho chó nó gặm à? Ôi sướng nhỉ? Chén, xì, lũ trẻ ranh, ba que mách qué, dốt như bò, khoét tiền dân…Hệ thống từ ngữ này tạo nên giọng điệu dân dã, gần gũi, tự nhiên trong cuộc trò chuyện. Nhờ giọng điệu này mà từng hình ảnh của cuộc sống sinh hoạt, từng cá tính, thói tật của mỗi người bộc lộ rõ, chân thực như nó vốn có ngoài đời. Văn Dương Hướng không phải là thứ văn được cách, thi vị mà rất gần với cuộc sống. Không chỉ đám dân đen mới ăn nói tự nhiên như vậy, ngay cả đến những cán bộ lời ăn tiếng nói cũng đầy khẩu ngữ: “Riêng việc phá đình, kể cả bí thư, chủ tịch cũng chờn. Quất biết tỏng tòng tong mấy bố trên xã vừa quyết vừa run (…). Riêng Quất thì chẳng sợ chó gì. Ở cái làng này Quất sợ mỗi lão Kình (…). Biết đâu bây giờ lão rình rập ở đâu đó xông ra gõ vào đầu Quất một gậy thế là ngoẻo”(31,55). Đây là giọng của “ngài trưởng thôn”. Tất nhiên nó là lời độc thoại nên tỏ ra rất thoải mái. Nhưng ngay cả những quan to như Trần Tăng, những mạnh thường quân về kinh tế như Đào Kinh, giọng điệu cũng tỏ ra rất phóng túng, tự nhiên.
“- Đấy là số trời đã định đoạt. Các cụ đã dạy, khôn chết, dại chết, chỉ biết là sống. Trời cho ai người ấy hưởng. Còn sống ngày nào ta còn vẫy vùng cho thỏa thích, ha ha…Cậu có kiếm được cô hoa hậu, á hậu nào cho tớ giải sầu đêm nay? Cậu đã kết tội, tớ nhận hết, nhận hết. Dù có chết cũng không hối tiếc chi.
- (….)
- Cậu rõ là thằng láu cá, muốn biến tớ thành kẻ suy đồi…Đừng chơi khăm thằng già này.
- Trời đất thánh thần anh còn không sợ, sợ gì thằng Đào Kinh làng Đoài chơi khăm”(29,36).
   Đọc văn Dương Hướng, người đọc cảm thấy các nhân vật rất sống, rất thật. Có đôi lúc bằng chính giọng văn tự nhiên suồng sã đó mà người đọc  như nhập cuộc với câu chuyện, nghe được câu chuyện.
Bên cạnh giọng tự nhiên suồng sã, ta còn nhận ra ở nhiều trang giọng hài hước, pha chút giễu nhại:
“Những lúc cả nhà đi làm thì ca hai vợ chồng lão Kình cởi áo ngồi bắt rận phơi ra hai tấm thân trần trụi, nhăn nheo xương xẩu. Cả hai vợ chồng lão Kình đều cạo đầu trọc lốc trắng nhởn. Hai núm vú của bà lão teo lại còn một dúm da nhăn nheo bám trên khuôn ngực khô đét (…). Lão chửi những con rận đã hút máu lão. Bằng những động tác dộng dao, lão quyết tâm tiêu diệt cả những cái trứng nhỏ tí (…). Có lúc lão điên lên, giơ dộng dao đập lia lịa, miệng rít lên “mày phải chết, phải chết ! Máu tao chứ có phải nước lã đâu”. Những ngày nắng to, lão Kình lại lò dò ra cửa cởi áo phơi trên nền gạch nóng “Mẹ kiếp! Ông cho chúng mày say nắng một bữa”. Lão ngồi bó gối ở cửa cười khoái chí vì nghĩ ra cách trừng trị lũ rận một cách hữu hiệu nhất” (31,139). Chi tiết bắt rận của vợ chồng lão Kình làm người đọc liên tưởng tới hình ảnh A.Q . Tiếng cười thú vị, nhẹ nhàng bật ra ở cách miêu tả rất hóm hỉnh “công cuộc” bắt rận công phu, tỉ mẩn, kĩ lưỡng. Hai vợ chồng già dường như dồn hết tâm lực vào việc đó. Đôi khi, tiếng cười bật lên chua chát hơn, sâu sắc hơn:
  “Quất đã có thái độ quyết liệt đấu tranh dũng cảm lắm mới tách được bản thân ra khỏi thành phần địa chủ của gia đình để đứng hẳn về phía những người nghèo khổ. Phải nói là Quất sắt đá lắm mới dám chỉ tay vào mặt bố vạch ra cái tội làm giàu của ông ta. Ôi, vạch tội người đẻ ra mình dễ mấy ai đã làm được (…). Thật là may cho số kiếp Quất lại sinh ra từ cái gia đình thối tha bẩn thỉu ấy” (31,56).
Để có một lý lịch đẹp, Quất không chỉ tự tách mình ra khỏi gia đình mà còn đấu tố cha đẻ y. Nhờ thế, Quất được thoát tội, được đề đạt. Quất cho số kiếp mình gặp may bởi cái chết của những người thân đã giúp y thêm địa vị, thêm quyền lợi. Dương Hướng đã giễu nhại sự ấu trĩ, mông muội của một lớp người ở giai đoạn lịch sử dữ dội đó. Còn đây là gương mặt của quan tỉnh “như hình ma bóng quỷ ám ảnh dân làng”:
“Nam đưa mắt nhìn Trần Tăng. Số an nhàn, Trần Tăng đi đến đâu cũng được xếp vào vị trí “Thái thượng hoàng”, ông chỉ việc ngồi cho oai, cho sang để người ta tâng bốc cho sướng miệng…Nhìn Trần Tăng nay đã tới tuổi ngoài bảy mươi, tóc bạc trắng, tọa lạc trên chiếc ghế đặc biệt, trông Trần Tăng giống vua Càn Long trong phim chiếu trên VTV3”(39).
“Nhìn gương mặt Trần Tăng trong ảnh lúc này giống vị cha cố ban phước lành cho các con chiên ngoan đạo ” (29,319).
Một kẻ dâm đãng, đầy mưu mô, tàn nhẫn, lọc lừa, tiến thân trên máu và nước mắt bao người như Trần Tăng lại có dung mạo như một cha cố, một vị Vua. Tiếng cười bật ra đầy mỉa mai, đầy ý vị. Thì ra cái ác, cái xấu tồn tại dưới muôn hình vạn trạng. Đôi lúc nó còn được xưng tụng. Người ta xưng tụng vì sợ nó. Đó là một thực trạng không phải là hiếm trong cuộc sống.
4.3. Giọng triết lý.
Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cho rằng Dương Hướng hay “triết lí vặt” nhưng lại nói được những vấn đề khá lớn lao. Đọc tiểu thuyết của nhà văn rất hay bắt gặp ông triết lí, tranh biện. Giọng triết lí được đặt vào miệng mọi đối tượng nhân vật. Khi là giọng của một nhà văn luôn đi tìm cái đẹp cho đời:
“Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu (…). Người ta đưa ra tiêu chuẩn của Đức Hạnh chỉ là sự lừa dối để làm khổ những kẻ nhẹ dạ ngớ ngẩn (… ). Xã hội càng văn minh hiện đại, tham vọng loài người càng lớn thì tâm hồn càng tẻ nhạt đi, hư hỏng đi ” (31,108).
“Tổn thất to nhất, tội ác lớn nhất của chúng ta là để làm mất lòng tin ở con cháu. Sự buồn tẻ nhất trong tâm hồn con người là sống không có niềm tin. Sống không có niềm tin, con người dám làm mọi chuyện. Chỉ một kẻ điên khùng có thể thiêu cháy toàn nhân loại”  (31,113).
“Trên đời này có nhiều kẻ không làm diễn viên nhưng họ coi cả cuộc đời này chỉ là một sân khấu”  (31,116).
Khi được thể hiện ở những người lao động chân lấm tay bùn: “Đất nước này giống như một cô gái đẹp nên nhiều thằng nó ghẹo. Con người ta cực thông minh mà cũng cực ngu, tìm mọi cách để bảo vệ sự sống và cũng tìm mọi cách để tiêu diệt nó” (31,262).
Các nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng đều giàu trải nghiệm, vì thế mà cũng ưa triết lí. Hoàng Kì Trung bôn ba khắp nơi, cuối đời truyền lại kinh nghiệm sống cho con trai “thời thế thế thời phải thế”; “phải nhận biết và chịu đựng cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống” (29,346). “Đã sinh ra trên cõi đời này chẳng thằng nào muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy con người ta cứ hèn đi” (29,467). Bởi định mệnh lịch sử mà các nhân vật của ông không ai hoàn toàn là nhân vật phản diện. Ngay cả đến một người như Trần Tăng cũng còn chút ít tình người.Trước sau, Dương Hướng không mất niềm tin ở con người.   
Không bóng bẩy, không hoa mĩ, không cầu kì, văn của Dương Hướng cứ tự nhiên thấm vào lòng người. Đó là sức hấp dẫn tự nhiên của một cây bút có nội lực. Tất nhiên đôi chỗ người đọc vẫn nhận ra sự thô vụng trong cách xử lí của nhà văn, nhưng như người đời thướng nói “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Bằng tâm huyết của một tấm lòng nặng nợ với đời, Dương Hướng đã cố gắng đem đến cho người đọc những trang văn đẹp nhất, chân thật nhất, nhân văn nhất.
    KẾT LUẬN
1.     Giá trị một đời người cũng giống như một bài thơ, không phải căn cứ vào số câu chữ mà ở nội dung. Cũng có thể nói như vậy về sự nghiệp văn học của Dương Hướng. Viết ít, nhưng mỗi tác phẩm ra đời đều góp một tiếng nói riêng trong vườn hoa đầy hương sắc của nền văn học nước nhà. Ba cuốn tiểu thuyết đầy đặn, bề thế nhận được sự đánh giá cao từ đồng nghiệp, độc giả, đó cũng là một niềm hạnh phúc đối với mỗi nhà văn. Điều đặc biệt, “Bến không chồng” là cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn đã đạt giải thưởng của hội văn nghệ Việt Nam 1991 và đã được dịch ra 12 thứ tiếng. Nó được coi là một trong những tác phẩm quan trọng của nền văn nghệ sau đổi mới. Một sự trình làng ngoạn mục. Mười lăm năm sau ông lại cho ra đời cuốn tiểu thuyết sử thi “Dưới chín tầng trời” được dư luận đánh giá cao.
2.     Khảo sát hệ thống Đặc điểm tiểu thuyết Dương Hướng, chúng tôi muốn có một cái nhìn sâu hơn về những thành công và đóng góp của Dương Hướng với nền văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975. Xét về phương diện nội dung, tiểu thuyết của nhà văn ra đời đã kịp thời đáp ứng nhu cầu dân chủ hóa mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. “Bến không chồng”, “Trần gian người đời” và “Dưới chín tầng trời” đã bóc tách cuộc sống dưới nhiều chiều: hạnh phúc và khổ đau, chân và ngụy, yêu và hận…Nó không mới với cuộc đời nhưng nó mới trong một nền văn học quá lâu bị hướng theo yêu cầu “minh họa” nên thường lý tưởng hóa bức tranh đời sống. Dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nói lên những thói tật, những bi kịch của cả một thời đại là những điều người đọc dễ nhận ra trong tiểu thuyết Dương Hướng. Bức tranh nông thôn qua lăng kính của ông vừa bình thản vừa dữ dội. Từ khung cảnh thiên nhiên tới những câu chuyện nhiều kịch tính, từ phong tục tốt đẹp tới những hủ tục nặng nề…, ai là không gặp lại một chút kỉ niệm, một chút suy tư, một chút mình khi đọc những trang văn ấy. Làng quê trở thành nguồn sữa tinh thần ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn.
Đặc biệt, nổi lên trên trang văn của ông là số phận của người phụ nữ và người lính. Những nhân vật như Hạnh, Dâu, Thắm, Nga, Thương Huyền…luôn gợi cho người đọc một sự yêu mến pha lẫn niềm xót thương. Ngòi bút thấm đẫm niềm cảm thương của nhà văn làm cho cuộc đời của những người phụ nữ ấy trở nên ám ảnh lạ lùng. Không người phụ nữ nào trong tác phẩm của ông có một số phận an nhàn, sung sướng. Nhà văn soi vào họ một cái nhìn đầy cảm thương. Đặc biệt là những khao khát rất nhân bản, rất người được ông lột tả chân thực và xúc động. Người đọc vì thế càng thấy họ đáng thương, đáng được cảm thông và trân trọng hơn bao giờ hết.
Từng là một người lính, Dương Hướng thấm thía hơn bao giờ hết vinh quang và những cay đắng nhọc nhằn, những mất mát của chiến tranh. Chiến tranh không chỉ mang đến những nỗi đau về thể xác với những tật nguyền suốt đời người lính phải chấp nhận chung sống mà những di chứng nặng nề trong tâm hồn đeo đẳng họ mới đáng sợ. Những người lính như Vạn, Nam, Bức, Đô, Hoàng Kì Trung…mang trong mình những nỗi đau riêng không gọi thành tên. Người thì bị những tín điều ngu ngốc làm mê muội, chưa bao giờ được biết đến hạnh phúc, đến chết vẫn cô đơn như Vạn.  Người thì bước ra chiến tranh  và mang những méo mó, dị tật về tâm hồn như Hoàng Kì Trung. Người thì tay trắng với sự đổ vỡ niềm tin về cuộc sống như Đô… Những số phận này là câu hỏi nghiêm túc về trách nhiệm của cả xã hội.
3. Không thật sự có những cách tân táo bạo về mặt nghệ thuật nhưng tiểu      thuyết của Dương Hướng vẫn hấp dẫn bạn đọc ở sự gần gũi, giản dị, tự nhiên. Đó là cái duyên của một cây bút nghiệp dư chỉ viết khi những nung nấu về cuộc đời, về văn chương đã chín.
Hai mươi năm có thể là nhiều nhưng chưa dài với một đời người, nhất là trong nghiệp văn vốn đầy khắc nghiệt, nhưng Dương Hướng cũng đã khẳng định được vị thế của mình. Nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết của Dương Hướng, chúng tôi không cho rằng đã giải quyết thấu đáo, đầy đủ mọi vấn đề nhưng hi vọng đã góp một tiếng nói trân trọng giới thiệu về nhà văn.
   Tài liệu tham khảo:
1.     Tạ Duy Anh – Đi tìm nhân vật, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2002.  
2.     Tạ Duy Anh – Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2004.
3.     M.Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa thông tin và Thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội 1992.
4.     M.Bakhtin - Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Đotxtoiepxki, Nxb Giáo dục , Hà Nội 1993.
5.     Lê Huy Bắc, Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí văn học (9-1998), tr 66-73.
6.     Nguyễn Thị Bình - Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975, khảo sát trên những nét lớn, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội 1996.
7.      Nguyễn Thị Bình - Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn xuôi nước ta từ sau 1975, Tạp chí văn học ( 4.2003). tr22-23.
8.     Nguyễn Thị Bình - Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975. Tạp chí văn học, (3.2010), tr 39- 44.
9.     Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết, Tạp chí Văn học (7.1978), tr 69-75.
11. Nguyễn Thị Bình - Một vài đặc điểm của tiểu thuyết mới, Tạp chí văn học  (6. 1999), tr 67-73 . 
12. Nguyễn Thị Mai Chanh – Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn Gào Thét và Bàng Hoàng, Nxb Giáo Dục, Hà Nội 2010.
13. Nguyễn Minh Châu - Những người đi từ rừng ra, Nxb văn học, Hà Nội 1977.

14. Nguyễn Minh Châu - Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Tập truyện ngắn, nxb Tác phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
15. Nguyễn Minh Châu - Miền cháy, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1977.
16. Nguyễn Minh Châu - Mảnh đất tình yêu. Nxb Tác phẩm mới , Hà Nội 1987.
17. Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp , Hà Nội 1974-1975.
18.Các bài viết về nhà văn Dương Hướng  trên trang http://.www.Trannhuong.com
19. Hà Minh Đức - Lý luận văn học, (Chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội 1997.
20. Nguyễn Hải Hà – Nguyễn Thị Bình - Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn  xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Chương trình KX. 07,  Hà Nội 2007.
21. Nguyễn Hải Hà - Thi pháp tiểu thuyết L.Tonxtoi, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1992.
22. Nguyễn Việt Hà – Cơ hội của Chúa, Nxb Văn học, Hà Nội 1999.
23. Lê Thị Đức Hạnh - Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1999.
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Trần Khắc Phi – Từ điển thuật ngữ văn học – Nxb Giáo dục, 1997.
25. Phạm Thị Hoài - Thiên sứ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh 1989.
26. Phạm Thị Hoài - Truyện ngắn, Nxb Hà Nội, Hà Nội 1995.
27. Nguyễn Trí Huân - Chim én bay, Nxb Quân đội Nhân dân Hà Nội 1989.
28. Dương Thu Hương - Bên kia bờ ảo vọng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội 1987
29. Dương Hướng -  Dưới chín tầng trời. Nxb Hội nhà văn, Hà nội 2007.
30. Dương Hướng - Bến không chồng. Nxb Hội nhà văn, Hà nội 1990.
31. Dương Hướng - Trần gian người đời, Nxb Thanh niên, Hn 1991
32. Ma Văn Kháng -  Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Lao động, Hà Nội 1990
33. Ma Văn Kháng - Mùa lá rụng trong vườn, Nxb phụ nữ , Hà Nội 1989.
34. M. Khrapchenco - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1978.
35. Kundera.M – Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà Nẵng 1998.
36. Nguyễn Khải - Cha và con và…, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1979.
37. Nguyễn Khải - Một người Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội 1990.
38. Chu Lai - Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hà Nội, Hà Nội 1992.
39. Chu Lai -  Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1985.
4o. Chu Lai - Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh Niên, Hà Nội 1990.
41. Nguyễn Quang Lập - Những mảnh đời đen trắng, Nxb Nghệ Tĩnh 1989.
42. Phong Lê – Tiểu thuyết hôm nay, Tạp chí Văn học (2- 1994), tr. 72-78.
43. Nguyễn Văn Long – Văn học Việt Nam trong thời đại mới – NXB Giáo dục, 2002
44. Lê Lựu - Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1986.
45. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1994.
46. Nguyễn Đăng Mạnh -  Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội 1983.
47. Bảo Ninh - Thân phận của tình yêu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 1990.
48. Nguyễn Thị Thanh Nga – Những cách tân nghệ thuật theo hướng hiện đại của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội 2006.
49. Phùng Phương Nga – Nhận diện thi pháp thể loại tiểu thuyết mới ở Việt Nam sau năm 1990, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học sư phạm Hà Nội 2007.
50. Nguyên Ngọc - Văn xuôi Việt Nam hôm nay…, Lao động Chủ nhật, (18.3.1990)
51. Nguyên Ngọc - Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí Văn học (4.1991), tr. 9-13.
52. Phạm Xuân Nguyên - Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí Văn học (2.1994), tr. 69-73.
53. Phạm Xuân Nguyên – Phân tích tâm lí trong tiểu thuyết, Tạp chí Văn học (2-1991), tr. 60-64.
54. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội 1979.
55. Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
56. Huỳnh Như Phương - Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền Văn học, Tạp chí văn học (4.1991), tr. 14-17.
57. Nguyễn Bình Phương – Thoạt kỳ thủy, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2003.
58. Trần Văn Phương – Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội 2001.
59. N.Poxpelop - Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998.
60. Bích Thu - Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua thông mô típ chủ đề, Tạp chí văn học (4.1996), tr. 39 - 41.
61. Bích Thu – Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Tạp chí văn học, (9.1996), tr. 32 – 41.
62. Nguyễn Huy Thiệp -  Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (tập truyện ngắn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2005
63. Nguyễn Mạnh Tuấn - Cù lao tràm, Nxb Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh 1984.
64. Nguyễn Mạnh Tuấn - Đứng trước biển, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1982.
65. Nguyễn Mạnh Tuấn - Những khoảng cách còn lại, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 1980
66. Nguyễn Khắc Trường - Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 1990.
67. Trần Đình Sử - Lý luận phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội 1996.
68. Trần Đình Sử - Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua, Tạp chí văn học, (6.1996), tr 7-14.
69. Trần Đình Sử - Giáo trình dẫn luận thi pháp học – Nxb Giáo dục, Hà Nội 1998.

Lời cảm ơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình với một tinh thần khoa học nghiêm túc của PGS-TS Nguyễn Thị Bình và TS Lê Hải Anh- hai người thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn nhà văn Dương Hướng đã cung cấp cho tôi những tư liệu quý trong quá trình làm luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè thân yêu đã động viên, giúp đỡ về nhiều mặt để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2010.
Tác giả
Đặng Thị Tuyết.

Mục lục
A.   Phần mở đầu
1.     Lý do chọn đề tài.
2.     Lịch sử vấn đề.
3.     Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.     Phương pháp nghiên cứu.
5.     Đóng góp mới của luận văn.
6.     Cấu trúc của luận văn.
B.   Phần nội dung
Chương 1.Tiểu thuyết Dương Hướng trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam từ đổi mới đến nay.
1.     Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam từ đổi mới đến nay.
1.1.         Về phương diện nội dung.
1.2.         Về phương diện nghệ thuật.
2.     Quan niệm về văn chương của Dương Hướng.
3.     Tiểu thuyết Dương Hướng – những thành công khiêm nhường mà chắc chắn.
Chương 2. Nội dung tiểu thuyết Dương Hướng.
1.     Bức tranh nông thôn.
1.1.         Bức tranh thiên nhiên làng quê.
1.2.         Những biến thiên lịch sử.
2.     Những bi kịch cá nhân.
2.1.         Bi kịch của người phụ nữ.
2.2.         Bi kịch của người lính.
Chương 3. Nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng.
1.     Cốt truyện.
2.     Nhân vật.
3.     Điểm nhìn trần thuật.
4.     Giọng điệu.
4.1                       Giọng điệu buồn thương.
4.2                       Giọng điệu tự nhiên suồng sã hài hước.
4.3                       Giọng triết lí.
Kết luận

Không có nhận xét nào: