27 thg 11, 2010

Khóa luận của Phạm Nguyên Giang

Trích khoá luận của Phạm Nguyên Giang
         ( 9 điểm)                                   

  MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
         Dương Hướng được đánh giá là một nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học đương đại Việt Nam. Tuy số lượng tác phẩm không nhiều nhưng nó đã ghi lại những mốc son trong tiến trình phát triển tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Những đóng góp của ông không phải là những đổi mới đột phá về thi pháp mà là ở nội dung của tác phẩm. Có thể nói nhà văn Dương Hướng đã dám “xé rào” đi vào lãnh địa mà nhiều nhà văn còn ngần ngại để phản ánh những góc khuất của lịch sử. Từ đó mang đến cho bạn đọc một cái nhìn mới, chân thực và đúng đắn với những gì đã qua.
        Dưới chín tầng trời là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Dương Hướng đã lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba (2006-2009) do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Tác phẩm đã phản ánh đời sống xã hội xuyên suốt một thời kỳ dài của lịch sử dân tộc: cuộc cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hóa ở miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và thời kỳ đất nước mở cửa.... Thông qua số phận của mỗi nhân vật: gia tộc Hoàng Kỳ, gia đình thương gia Đức Cường, tỉ phú Đào Kinh, Trần Tăng, .... là bộ mặt của lịch sử với những sai lầm, ấu trĩ của nó. Với tiểu thuyết này, một lần nữa nhà văn Dương Hướng nhìn lại lịch sử như một nhân vật với những vấn đề của nhân tình thế thái.   Một trong những lực hút của Dưới chín tầng trời chính là nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện. Trong lời giới thiệu về cuốn tiểu thuyết này, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã viết: “Nếu như tiểu thuyết trước hết là cốt truyện thì tác phẩm này thừa sức hấp dẫn. Vì cốt truyện rất ly kỳ, nhiều tuyến nhân vật quan hệ éo le, nhiều tuyến hành động diễn ra các miền Trung, Nam, Bắc, có xóm làng và thành phố, có chiến trường ác liệt ở miền Nam và sinh hoạt nhộm nhạo, và rối ren vùng biên giới phía Bắc....  Với tôi thì tiểu thuyết trước hết là nhân vật”( 24,503).
        Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề: “Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng”. Qua khóa luận mong muốn đóng góp tiếng nói tri ân đối với tài năng của nhà văn Dương Hướng.
2. Phạm vi nghiên cứu.
- Tác phẩm Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng.
3. Lịch sử vấn đề.
Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng được in 2007 do nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Tuy đã xuất bản cho đến nay là ba năm và được lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba của Hội Nhà văn nhưng chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm. Các bài viết bình luận về tác phẩm này trên báo chí cũng rất hạn chế và nếu có thì phần nhiều mang tính chất giới thiệu sách. Theo thống kê của chúng tôi có những bài viết đáng chú ý sau:
·        Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng có bài viếtvới tiêu đề “Bi kịch lạc quan trong Dưới chín tầng trời” in trên Tạp chí Nhà văn số 10 – 2008 và sau đó được in trong cuốn Tiểu thuyết đương đại (Nxb Văn hóa thông tin). Trong bài viết này nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng đã đưa ra những nhận xét rất xác đáng. Đầu tiên ông khẳng định tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là một tác phẩm mang tính bi kịch nhưng qua những số phận kịch của mỗi nhân vật ta không cảm thấy yếu hèn đi mà có niềm tin vào một ngày mai sẽ là “một con đường mới”. Như vậy, cái bi kịch trong Dưới chín tầng trời chính là một hình thức để “tẩy rửa tâm hồn” con người. Và đó là một “bi kịch lạc quan”. Điều thứ hai mà nhà phê bình này nhấn mạnh trong bài viết là cách tiếp cận lịch sử của nhà văn Dương Hướng khi nhận định đây là “một cuốn tiểu thuyết toàn bích về những góc khuất của lịch sử”. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng còn cho rằng Dưới chín tầng trời là một cuốn tiểu thuyết “mang đậm chất sử thi tâm lý” bởi “tác phẩm được mở ra với một thời gian dài và một không gian rộng và tầng tầng lớp lớp nhân vật. Một hình ảnh đời sống trọn vẹn, đa chiều và phức tạp từ “thượng đỉnh” tới “hạ giới”..”(15). Qua bài viết của nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng, bạn đọc đã có thể phần nào phác họa ra “bức chân dung” của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời.
·        Nhà nghiên cứu văn học Phong Lê cũng có bài giới thiệu tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng trên Tạp chí Nhà văn số 9 – 2009 với tiêu đề “Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời. Trong bài viết của mình nhà phê bình Phong Lê cho rằng Dưới chín tầng trời là một bước tiến so với cuốn tiểu thuyết Bến không chồng. Và sau khi khái quát lại cái “nội dung” của tác phẩm nhà phê bình có nêu một số nhận định về mặt nghệ thuật của Dưới chín tầng trời như cốt truyện, nhân vật,... Về cốt truyện, ông cho rằng Dưới chín tầng trời vẫn là một cuốn tiểu thuyết viết theo lối truyền thống, tuy nhiên vẫn có sự tìm tòi của nhà văn trong cách viết của mình. Đó là sự lắp ghép các sự kiện không tuân theo tuyến tính thời gian, là sự lắp ghép cấu trúc các khối đời, vừa độc lập với nhau, vừa xen cài vào nhau, để qua đó hình thành hướng đi của lịch sử. Không những thế trong Dưới chín tầng trời còn có rất nhiều chi tiết mang tính biểu tượng tạo nên những ấn tượng cho tác phẩm. Về mặt cấu trúc tác phẩm cũng giống như nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng, ông khẳng định đây là cuốn tiểu thuyết mang đậm chất sử thi. Và nhân vật chính trong tác phẩm mà nhà văn Dương Hướng hướng đến chính là lịch sử với một sức mạnh đầy quyền năng. Nhân vật “vô hình” này đã “chi phối, sức ngự trị của nó trong mọi hành vi, ứng xử của con người”(16).
·        Là người giới thiệu cuốn tiểu thuyết, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến có bài viết “Cách nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời”. Trong bài viết của mình nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến đã nêu bật lên được “linh hồn” của tác phẩm. Bằng việc phân tích một số nhân vật trung tâm như: Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Trần Tăng, Đào Kinh, Hoàng Kỳ Nam, Đào Thanh Măng, Thu Cúc... Hoàng Ngọc Hiến đã làm nổi bật lên nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Dương Hướng. Đồng thời qua đó làm toát lên tư tưởng chủ đề của cuốn tiểu thuyết.
·        Bên cạnh những bài viết có tính chất bình luận trên còn có những bài viết: “Dương Hướng sau Bến không chồng” của tác giả Trần Thị Phương Thảo đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội số 7 – 2008; bài phỏng vấn của tác giả Phong Điệp với tác giả Dương Hướng về quá trình viết tiểu thuyết Dưới chín tầng trời với nhan đề “Dưới chín tầng trời mười lăm năm thai nghén” đăng trên nguồn Người lao động online; bài “Tản mạn về nhà văn Dương Hướng” của tác giả Nguyễn Duy Liễm đăng trên Gió đồng quê blog.com; Hữu Tuân với bài viết       Dưới chín tầng trời – bức tranh hiện thực hoành tráng” đăng trên Duonghuongqn.Vnblog.com. Nói chung những bài viết này đều nghiêng về tính chất giới thiệu sách chưa đi sâu vào việc phân tích tác phẩm, nếu có cũng chỉ là cái “phần nổi” của nó.
·        Như vậy, qua việc khảo sát một số bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình văn học, của các tác giả, chúng tôi thấy những bài viết này ít nhiều đã đề cập đến vấn đề nội dung tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng. Trong khóa luận của mình chúng tôi xin đi vào nghiên cứu sâu hơn về vấn đề xây dựng nhân vật và cốt truyện trong cuốn tiểu thuyết này để góp phần khẳng định giá trị của Dưới chín tầng trời cũng như những đóng góp của nhà văn Dương Hướng trong nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
         Để thực hiện khóa luận “Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng” chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
* Khảo sát
* Đối chiếu
* So sánh
* Thống kê
* Phân tích
* Tổng hợp
5. Cấu trúc của khóa luận.
          Với đề tài: “Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng”, khóa luận của chúng tôi được cấu trúc như sau:
·        Mở đầu.
·        Nội dung.
Chương 1: Tiểu thuyết Dương Hướng trong dòng chảy của tiểu thuyết đương đại.
Chương 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời.
Chương 3: Cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời.
·        Kết luận.
·        Tài liệu tham khảo.






NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG TRONG DÒNG CHẢY CỦA TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM.
1.1. Khái quát về tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
·                    Đôi nét về tiến trình phát triển của tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
         Năm 1925, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách ra đời đã đánh dấu cho sự mở đầu của tiểu thuyết hiện đại trong nền văn học Việt Nam. Theo dòng chảy của thời gian, trải qua những biến cố của lịch sử, tiểu thuyết vẫn tồn tại và phát triển. Mặc dù có những lúc thăng, lúc trầm nhưng tiểu thuyết Việt Nam vẫn lặng lẽ chảy. Đôi khi nó trào lên một đợt sóng làm cho đời sống văn học trở nên nóng bỏng hơn, sôi động hơn bởi những cách tân của nó. Hơn tám mươi năm qua, tiểu thuyết đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền văn học nước nhà. Đến nay, mặc dù trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, con người không mấy khó khăn để làm giàu thế giới tinh thần của mình nhưng tiểu thuyết vẫn giữ được chỗ đứng một cách vững chắc. Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thị Hạnh đã có lý khi nhận định rằng: “Ở thời đại như thời đại chúng ta, có thể chỉ có tiểu thuyết là thể loại văn học duy nhất có thể cạnh tranh nổi với các hình thức nghệ thuật thuộc về hệ thông tin được mệnh danh là mass_media, trên bình diện vươn tới một công chúng rộng rãi”( 3,10). Sở dĩ tiểu thuyết có thể đứng vững được trong thời đại thông tin số hiện nay bởi “Ở thể loại này bao giờ cũng vậy, khúc xạ rõ nét nhất bộ mặt đời sống tinh thần và những thăng trầm xã hội. Đang diễn ra trong trực tế một sự biến động phức tạp, dữ dội và nhiều khi khó nắm bắt tâm hồn con người thời đại”( 2,5). Và cũng theo dự báo của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Việt Thắng thì tiểu thuyết Việt Nam đang có những chuẩn bị tích cực cho một tương lai với những tác phẩm có giá trị đích thực. Như vậy ta có quyền tin và hy vòng vào một tương lai tươi sáng của nền tiểu thuyết Việt Nam.
        Trong dòng văn học nói chung, có thể nói tiểu thuyết là thể loại duy nhất tạo nên nhiều “sóng gió” trên văn đàn. Trong truyện ngắn có hai hiện tượng Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp thì theo nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng cứ khoảng “một thập niên tiểu thuyết lại dấy lên cao trào, một đợt sóng mới” (2,125) và nó gắn liền với những giai đoạn lịch sử của dân tộc. Và cũng theo ông trong tiến trình phát triển của mình cho đến nay, tiểu thuyết đã tạo ra bốn cao trào lớn trong dòng chảy của văn học. Cao trào đầu tiên của tiểu thuyết gắn liền với thời kỳ khôi phục kinh tế - xã hội – văn hóa (1959 – 1961) với những tác phẩm tiêu biểu: Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ; Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai; Vào đời của Hà Minh Tuân; Mùa hoa dẻ của Văn Linh; Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng; Sóng gầm của Nguyên Hồng; Trước giờ nổ súng của Lê Khâm... Những tác phẩm này đã tạo nên không khí sôi động, náo nhiệt cho sự phát triển của tiểu thuyết. Mặt khác, nó đã kịp thời thâu tóm những nét căn bản nhất của đời sống đầy khẩn trương của cả dân tộc trong mình.
       Cao trào thứ hai của tiểu thuyết diễn ra vào khoảng năm 1969 đến năm 1972, đây là thời kỳ cả nước gồng mình lên để  thực hiện hai nhiệm vụ lớn: vừa xây dựng, vừa bảo vệ tổ quốc. Ở miền Bắc, nhân dân vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đồng thời là hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt. Ở miền Nam cuộc chiến tranh với đế quốc Mỹ cũng đang trong giai đoạn quyết liệt nhất. Lúc này chủ nghĩa anh hùng được đẩy lên cao nhất trong mọi phương diện: trong sản xuất, trong chiến đấu, thậm chí cả trong tình yêu. Và tiểu thuyết với đặc trưng của thể loại, đã chứng tỏ thế mạnh của mình trong việc bao quát hiện thực và thể hiện tinh thần dân tộc trong khuynh hướng “sử thi hóa”, “anh hùng ca hóa”. Các tác phẩm tiêu biểu là: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Mẫn và Tôi của Phan Tứ; Vùng trời của Hữu Mai; Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi; Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh....
        Cao trào thứ ba là vào năm 1979 đến 1982, chiến tranh đã qua, cả nước đang bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đất nước. Lúc này các nhà văn có thời gian để nhìn nhận lại những gì đã qua đồng thời “thử đứng ở nhiều góc nhìn khác nhau để tái tạo hiện thực”( 2,126). Các tác phẩm Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Gặp gỡ cuối năm củaNguyễn Khải, Cửa gió của Xuân Đức, Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng... đã phần nào thoát khỏi “quán tính” của tiểu thuyết trong thời chiến để đi vào khám phá đời sống thời hậu chiến.
        Cao trào thứ tư là vào cuối những năm tám mươi đến đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết  đi vào tái hiện lại bức tranh đời sống xã hội Việt Nam thời hiện đại với tất cả tính phức tạp của nó. Tuy nhiên đề tài chiến tranh vẫn là một mảnh đất màu mỡ để các cây bút thể hiện tài năng của mình. Với độ lùi về thời gian, cùng với sự tự do của thời kỳ đổi mới các nhà tiểu thuyết đã có một cái nhìn mới chân thực hơn về nó – Lịch sử được nhìn qua cuộc đời của mỗi con người cụ thể, qua những số phân bi kịch hay những góc khuất của lịch sử mà trước kia được duyệt vào “vùng cấm”. Trong thời gian này các nhà văn cũng có nhiều cố gắng trongviệc đổi mới phương thức thể hiện của tiểu thuyết sao cho phù hợp với bước tiến của lịch sử. Các tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn này là: Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Ông cố vấn của Hữu Mai; Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; Cuốn gia phả để lại của Đoàn Lê; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Tường; Thân phận tình yêu của Bảo Ninh; Bến không chồng của Dương Hướng; Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai; Đại tá không biết đùa của Lê Lựu....
       Như vậy, qua quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam cũng như những đợt sóng mà nó tạo ra trong nền chung của văn học Việt, ta phần nào cảm nhận được “tiểu thuyết đang ngày càng trở nên một nhu cầu, một giá trị không thể thay thế”( 12,20).
·                    Những thay đổi trong tiểu thuyết đương đại.
·                                Những thay đổi về mặt đề tài.
        Có người cho rằng tiểu thuyết là “máy cái” của văn học thật đúng. Qua tiểu thuyết, chúng ta nhìn thấy bộ mặt của lịch sử bởi nó đã khúc xạ một cách rõ nhất đời sống tinh thần cũng như những đổi thay trong xã hội. Tiểu thuyết còn được coi là một thể loại của “thì hiện tại” và có khả năng đi vào ngõ ngách của đời sống để khám phá. Mặt khác, nó cũng là một: “thể loại văn chương duy nhất luôn luôn biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn sự chuyển biến của bản thân hiện thực”( 10,27). Nhìn tổng quan nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam, ta thấy có những dấu hiệu chuyển biến đáng mừng từ chủ đề đến phương thức biểu hiện của tác phẩm. Các nhà văn đã cố gắng bám sát vào hiện thực cuộc sống, hoặc nhìn nhận lại quá khứ ở những khía cạnh khác nhau qua đó đưa ra những vấn đề mang tính cấp thiết của thời đại.
           Về mặt đề tài, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra hình bóng của chiến tranh vẫn để lại những dấu nhấn khá đậm nét trong nền tiểu thuyết Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù vẫn là đề tài chiến tranh nhưng giờ đây các nhà tiểu thuyết lại nhìn nó ở một khía cạnh khác: con người trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Chiến tranh đã đi qua nhưng những hậu quả mà nó để lại trong đời sống con người không phải là nhỏ. Hậu quả lớn nhất mà con người phải gánh chịu đó là những tổn thương về tinh thần: “là những cô đơn, là sự tuyệt vọng, cả những rách nát” (2,7) trong tâm hồn của con người. Bên cạnh đó, các nhà tiểu thuyết đã không ngần ngại đi vào khám phá những hạn chế, góc khuất của lịch sử. Cũng chính vì thế mà tiểu thuyết chiến tranh đã gây ra được tiếng vang lớn và làm xôn xao nền văn học nước nhà: Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh; Chim én bay của Nguyễn Trí Huân; Miền cháy của Nguyễn Minh Châu; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng, Khúc bi tráng cuối cùng của Chu Lai; Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng, Dưới chín tầng trời của Dương Hướng... Không những thế các tác phẩm này ít nhiều đã chạm tới những cách tân trong phương thức thể hiện mà trước đó chưa có như sử dụng hiện thực tâm lý, những yếu tố kỳ ảo, dòng ý thức... tạo nên sự đa dạng về phong cách và giọng điệu trong tiểu thuyết. Có thể nói chính sự đổi mới trong tư duy tiểu thuyết là một trong những yếu tố quan trọng để các nhà văn đổi mới.
Bên cạnh sự thành công của tiểu thuyết chiến tranh thì tiểu thuyết đời tư thế sự cũng chiếm một phần không nhỏ trong nền tiểu thuyết Việt Nam. Những tác phẩm như: Nước mắt đỏ của Trần Huy Quang; Gặp gỡ cuối năm, Cha và con và... của Nguyễn Khải; Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giã thú của Ma Văn Kháng, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài; Trăm năm thoáng chốc của Vũ Huy Thanh; Tường thành của Võ Thị Xuân Hà; Gia đình bé mọn của Dạ Ngân; Cõi mê của Triệu Xuân; Dòng sông mía của Đào Thắng; Tấm ván phóng đao của Mạc Can.... là những tác phẩm nghiêng về khai thác những cảnh ngộ, số phận con người trong cuộc sống ở cả chiều thuận lẫn chiều nghịch của nó. Số phận con người trong tiểu thuyết ngày nay được trình bày như những ẩn số, một thế giới đầy bí ẩn. Con người được khai thác một cách toàn diện hơn trong sự phức tạp đa chiều về tính cách chứ không còn là cái nhìn đơn giản một chiều như trước kia. Cái nhìn về hiện thực và tâm hồn con người được bao quát một cách toàn diện hơn. Với tinh thần thẳng thắn cộng với tài năng và lương tâm của người cầm bút, các nhà tiểu thuyết đã không ngại va chạm, cố gắng mổ xẻ hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người một cách chân thật hơn, sinh động hơn. Trong giai đoạn này, vấn đề tình dục cũng được các nhà tiểu thuyết chú ý tới trên phương diện là một lĩnh vực riêng của đời sống cá nhân. Các nhà văn đã không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể trong trang sách của mình, điều mà trước kia còn rất hạn chế trong văn học. Những tác phẩm: Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái, Chinatown, Pari 11 tháng 8 của Thuận... đã góp phần đem lại cái nhìn mới về vấn đề được coi là nhạy cảm trong văn học. Có thể nói rằng “tiểu thuyết hôm nay áp rất sát đời sống, xông thẳng vào các “mắt bão” của cuộc đời để nêu nên những vấn đề cực kỳ quan thiết với con người thông qua những số phận bi kịch”( 2,9). Những nỗ lực đó của các nhà tiểu thuyết đã tạo nên một diện mạo mới cho tiểu thuyết Việt Nam hôm nay.
Lịch sử cũng là một trong những đề tài được các nhà viết tiểu thuyết quan tâm. Gần đây ta có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như: Thăng Long ký sự của Nguyễn Khắc Phục; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo; Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh... Mỗi tác phẩm mang một phong cách riêng và hướng độc giả tới một cái nhìn mới, toàn diện hơn về lịch sử. Các nhân vật lịch sử được soi chiếu từ nhiều chiều với đầy đủ đời sống nội tâm và các cung bậc tình cảm của con người. Sự kiện lịch sử giờ đây không còn đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm nữa, mặc dù các nhà tiểu thuyết vẫn tôn trọng sự thật của các sự kiện nhưng giờ nó chỉ là cái cớ để nhà văn thể hiện những ý đồ nghệ thuật của mình. Có thể nói tiểu thuyết lịch sử ngày càng tiến gần đến những đặc trưng mang tính bản chất của thể loại tiểu thuyết. Hay nói cách khác đó là những tác phẩm tiểu thuyết thực sự. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho tiểu thuyết lịch sử Việt Nam.
Bên cạnh những tác phẩm của các tác giả trong nước, tiểu thuyết đương đại Việt Nam hôm nay đa dạng hơn, phong phú hơn nhờ sự bổ sung của các cây bút hải ngoại. Tác phẩm của họ giúp cho ta hiểu thêm cuộc sống của người Việt nơi đất khách quê người, đồng thời những tác phẩm này cũng có những đóng góp nhất định trong quá trình đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết hôm nay. Có thể kể đến các tác gia tiêu biểu, ít nhiều đã quen thuộc với bạn đọc Việt như: Thuận với Made in Vietnam, Chinatown, Paris 11 tháng 8; Lê Ngọc Mai với Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc; Lê Minh Hà với Gió từ thời khuất mặt; Bùi Việt Sỹ với Người đưa đường thọt chân; Hữu Đạt với Hai đầu của bức thư tình...
Nhìn chung, sự thay đổi về mặt đề tài, chủ đề của tác phẩm đã diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục qua nhiều thế hệ các nhà văn. Sự đổi mới này chính là hệ quả của sự đổi mới trong tư duy, nhận thức về con người và đời sống xã hội. Đây là một sự vận động mang tính chất nội tại và qua đó đặt cơ sở cho sự đổi mới về hình thức của tác phẩm.
·                                Những đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
Nếu quan tâm đến đời sống của nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thay đổi khá mạnh mẽ trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. Cái sự thay đổi đó là lẽ tất yếu trong dòng chảy chung của nền văn học đương đại đồng thời nó phù hợp với xu thế vận động của thời đại.
Một trong những thay đổi trong tiểu thuyết đương đại hôm nay là thay đổi trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Đây là điều quan trọng nhất để tạo nên những vận động trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam, bởi mọi sự thay đổi đều do con người tạo ra. Trong thời đại hiện nay, sống trong môi trường công nghiệp hóa hiện đại hóa, tư duy của con người không còn “ngây thơ” như thời nguyên thủy nữa nên nhiệm vụ của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng không phải “giảng đạo” mà là phương tiện để giúp con người khám phá chính mình. Đồng thời văn chương cũng là một phương tiện giải trí chứ không phải là “văn dĩ tải đạo” như trước. Chính vì thế mà tư duy nghệ thuật của các nhà tiểu thuyết cũng phải thay đổi. Các nhà tiểu thuyết hiện nay đã chú ý tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, vào cái đời thường của cuộc sống. Không những thế, họ còn đi sâu vào khai thác đời sống tâm hồn của con người ở mọi tầng bậc khác nhau. Họ gắng “phanh phui” mọi ngóc ngách trong tâm hồn con người cũng như trong đời sống. Từ những biến đổi trong tư duy, trong cách nhìn dẫn đến biến đổi trong nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
Biến đổi đầu tiên trong tiểu thuyết là cấu trúc của tác phẩm. Cấu trúc tác phẩm tiểu thuyết đương đại có sự vận động từ lịch sử - sự kiện sang lịch sử - tâm hồn. Các nhà tiểu thuyết đương đại không triển khai cốt truyện trên nhiều tuyến nhân vật và nhiều tuyến sự kiện nữa mà thay vào đó là những biến đổi về tâm trạng, những thay đổi trong suy tư, cảm xúc của con người. Điều này làm cho tính chặt chẽ trong cấu trúc tiểu thuyết truyền thống bị phá vỡ. Cốt truyện cũng được xây dựng chủ yếu dựa trên những biến đổi của tâm trạng nên rất khó nắm bắt và khó kể. Cấu trúc lịch sử - tâm hồn, tạo điều kiện cho nhà tiểu thuyết đi vào thế giới tâm hồn của con người theo chiều sâu. Cũng dựa vào thế giới tâm hồn con người, các nhà tiểu thuyết như những nhà ảo thuật đầy tài năng đã tạo ra nhiều kiểu kết cấu khác nhau. Ví dụ Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh...  mang kiểu kết cấu đặc biệt giống như một trò chơi Rubich. Kiểu kết cấu này tạo nên sự hỗn loạn, chắp vá, gẫy khúc của tác phẩm. Do đó cốt truyện trở nên lỏng lẻo, rời rạc và khó nắm bắt. Điều này đã tạo nên tính đa thanh cho tác phẩm. Và khi người đọc có tiếng nói chung với nhà văn thì mới giải nghĩa được hết các tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm.
Bên cạnh đó các thi pháp nghệ thuật hiện đại cũng được các nhà tiểu thuyết đưa vào trong sáng tạo tác phẩm. Gần đây, hiện tượng liên văn bản được sử dụng khá nhiều trong nghệ thuật tiểu thuyết. Nó làm cho tiểu thuyết diễn ra một cách tự nhiên chứ không phải là sự sắp đặt như trong tiểu thuyết truyền thống. Bằng việc lắp ghép các mảng tâm trạng, những mảnh vụn của đời sống không theo trật tự của thời gian, tiểu thuyết đã phản ánh cuộc sống một cách đa chiều đầy phức tạp. Bên cạnh đó là các thủ pháp như: dòng ý thức, giấc mơ, huyền thoại, độc thoại nội tâm,... cũng được sử dụng khá phổ biến để phác họa một cách thật nhất con người của thời đại hôm nay. Chính điều này làm cho quan niệm về tiểu thuyết trong truyền thống bị mờ dần đi, và mang đến cho tiểu thuyết một diện mạo mới.
Tiểu thuyết đương đại đang có hiện tượng co ngắn lại. Thiết nghĩ đây cũng là lẽ tự nhiên bởi nó phù hợp với thời đại. Trong xã hội ngày nay con người đang chạy đua với thời gian, chắc chắn có lẽ ít ai lại bỏ ra một lượng thời gian lớn để đọc những cuốn tiểu thuyết dày hàng nghìn trang như Chiến tranh và hòa bình (L.Tônxtôi), Những người khốn khổ (V.Huy gô), Sông đông êm đềm           (Sôlôkhốp),… trừ những nhà nghiên cứu hay những người trong ngành. Nhìn lại bộ mặt của tiểu thuyết những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX đến nay, ta thấy đa số các tác phẩm chỉ có khoảng vài trăm trang trở lại như: Thiên sứ của Phạm Thị Hoài có 180 trang, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh có 338 trang, Bến không chồng của Dương Hướng có 281 trang, Tạ Duy Anh với Lão Khổ có 260 trang, Đi tìm nhân vật có 225 trang, Thiên thần sám hối có 125 trang; Nguyễn Bình Phương với Thoạt kỳ thủy có 158 trang; Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh có 190 trang; Mạc Can với Tấm ván phóng dao có 197 trang; Thuận với Phố Tàu có 222 trang... Có thể thấy tiểu thuyết đương đại đa số mang hình thức của một truyện dài nhưng lại có sự dồn nén lớn về nội dung phản ánh. Chính điều này đã góp phần tạo nên tính thơ và triết lý trong tiểu thuyết đương đại. Chất triết lý toát ra từ những suy tư, những tranh biện trong độc thoại và cả đối thoại của nhân vật. Chất thơ lại thể hiện trong những mơ mộng, những cảm xúc của nội tâm con người hay ở chất liệu huyền thoại. Mặt khác, trong tiểu thuyết hôm nay nảy sinh cuộc đối thoại ngầm giữa nhà văn với độc giả. Cuộc đối thoại ngầm này được thực hiện thông qua điểm nhìn của tác phẩm. Nếu trước kia, trong tác phẩm chỉ có một điểm nhìn: điểm nhìn người kể chuyện, thì giờ đây, mỗi tác phẩm được soi chiếu bởi nhiều điểm nhìn khác nhau. Điểm nhìn của tác phẩm được đặt vào nhiều nhân vật khác nhau để soi chiếu một cách đa chiều, tạo nên sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Bởi thế, khi tiếp cận với tác phẩm người đọc phải đặt mình vào những nhân vật khác nhau, những tình huống, hoàn cảnh khác nhau để nhìn nhận vấn đề. Có nghĩa là người đọc phải chủ động suy nghĩ và cùng sáng tạo với nhà văn. Điều này tạo nên sự hứng thú trong sự sáng tạo tác phẩm của nhà tiểu thuyết cũng như trong sự tiếp nhận của người đọc.
Như vậy, trong quá trình phát triển với những cách tân của mình, tiểu thuyết đương đại đã có những đóng góp đáng kể trong sự đổi mới nền văn học nước nhà về cả nội dung lẫn hình thức. Đồng thời những cách tân đó cũng thể hiện sự nỗ lực của tiểu thuyết đương đại Việt Nam trong quá trình hòa nhịp với dòng chảy của nền tiểu thuyết  thế giới.

·                    Quá trình và thành tựu sáng tác của Dương Hướng.
·                    Đôi nét về cuộc đời nhà văn Dương Hướng.
          Dương Hướng tên thật là Dương Văn Hướng sinh ngày 8-7-1949 tại làng An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Năm mười sáu tuổi cũng là lúc đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng ra miền Bắc, Dương Hướng đã xung phong đi công nhân quốc phòng. Sau hai năm (1967) Dương Hướng được cử đi học tại trường Kỹ thuật tàu thủy. Năm 1969, Dương Hướng ra trường và được điều về công tác tại Công ty vận tải đường sông 204 – 208. Năm 1971, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam chống lại đế quốc Mỹ đang vào giai đoạn cuối đầy khốc liệt, Dương Hướng lại xung phong đi bộ đội. Ông vào chiến đấu tại chiến trường khu IV, đơn vị E573 thuộc Quan khu V. Sau khi miền Nam được giải phóng (30-4-1975), đất nước thống nhất thì năm 1976, Dương Hướng được phân về công tác tại Cục hải quan Quảng Ninh và công tác đến ngày nay. Sau bao năm lăn lộn ở chiến trường với những trải nghiệm trong cuộc sống là nguồn tư liệu quý giá cộng thêm cái tâm của nhà văn đã tạo đà cho cây bút văn chương thăng hoa. Năm 1989 ông cho xuất bản tập truyện ngắn Gót son. Năm 1990, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Bến không chồng. Tác phẩm đã đưa nhà văn lên một vị trí cao trong văn học Đổi mới. Cùng với cuốn tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Tường và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng đã tạo nên một đợt sóng mới về cách tiếp cận lịch sử nói chung và chiến tranh nói riêng trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Sau sự thành công của Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng tiếp tục cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Trần gian và đời người năm 1991, tuy nhiên do cái bóng của Bến không chồng quá lớn mà tác phẩm này không được nhiều bạn đọc chú ý. Do công việc ở cơ quan quá nhiều như nhà văn tâm sự “như bà mẹ nuôi con thơ”(22) nên nhà văn Dương Hướng không có thời gian để sáng tác tiểu thuyết mà chỉ tranh thủ viết một vài truyện ngắn. Đến năm 1995, tập truyện ngắn Người đàn bà trên bãi tắm được xuất bản. Ba năm sau cuốn tiểu thuyết Bóng đêm mặt trời được khai sinh, nhưng giống như người anh trước, nó cũng bị chìm đi trong cái bóng của Bến không chồng. Sự thành công của Bến không chồng quá lớn đã làm cho những người em sinh sau của nó bị khuất lấp. Khi nhắc đến nhà văn Dương Hướng người ta chỉ nhớ đến Bến không chồng mà không hề biết đến những tác phẩm sau. Sau tác phẩm Bóng đêm và mặt trời, nhà văn Dương Hướng dường như im hơi lặng tiếng trong văn đàn, để rồi sau chín năm bỗng làm mọi người ngỡ ngàng bởi sự bứt phá với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Không giống như hai cuốn tiểu thuyết trước, Dưới chín tầng trời đã rẽ sang một lối khác và thoát khỏi cái bóng của người anh Bến không chồng. Tác phẩm xuất bản năm 2007, sau “mười lăm năm thai nghén”. Một lần nữa, tiểu thuyết của nhà văn Dương Hướng lại gây xôn xao trong giới nghiên cứu, phê bình văn học cũng như những ai quan tâm đến đời sống văn học nước nhà. Vẫn tiếp tục khai thác đề tài lịch sử nhưng tác phẩm cho thấy độ chín của một cây bút tài năng. Có thể nói từ thành công đầu tiên với tác phẩm Bến không chồng nhà văn Dướng đã làm việc một cách không mệt mỏi để tích lũy vốn sống cũng như những kinh nghiệm trong nghề để rồi cho ra đời “một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống nóng hổi những tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước”(24)
           Như vậy, từ làng Đoài, Dương Hướng ra đi. Bước chân trải dọc theo chiều dài của đất nước. Từ một thanh niên nông dân thành công nhân quốc phòng rồi thành anh bộ dội giải phóng quân và chuyển ngành sang làm các bộ ngành hải quan của miền Đông Bắc tổ quốc, những miền đất đã đi qua, những sự việc xảy ra xung quanh, những công việc đã từng trải nghiệm... tất cả đều được Dương Hướng khắc họa dưới ngòi bút tài hoa diệu nghệ. Trong mấy chục năm chấp bút, so với những người bạn cùng thời, số lượng tác phẩm của nhà văn Dương Hướng không phải là nhiều nhưng ông đã để lại tiếng vang lớn trên văn đàn. Người xưa thường nói: “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Có lẽ, Dương Hướng thuộc lớp nhà văn này. Ông cũng đã từng tâm sự: “Một đời cầm bút viết một cái hay còn hơn viết mười cái dở”(22). Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nhà văn Dương Hướng đã để lại những tác phẩm mà cho tới nay giá trị đích tực của nó vẫn là cái mốc sừng sững trong làng văn Việt Nam.
1.2.2. Những thành công và đóng góp của nhà văn Dương Hướng trong nền tiểu thuyết đương đại.
         Như là một người có duyên nợ với văn chương, ở tuổi ngũ tuần Dương Hướng mới bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình nhưng chỉ sau hai năm và qua hai tác phẩm (Gót son; Bến không chồng) cái tên Dương Hướng đã trở nên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam. Đặc biệt cuốn tiểu thuyết Bến không chồng xuất bản năm 1990 đã đánh dấu bước thành công đầu tiên của nhà văn và đồng thời cũng ghi danh nhà văn trên văn đàn văn học Việt Nam. Đến nay sau hơn hai mươi năm trong nghề, nhà văn Dương Hướng đã xuất bản được sáu tác phẩm trong đó có hai tập truyện ngắn là: Gót Son (1989), Người đàn bà trên bãi tắm (1995) và bốn cuốn tiểu thuyết: Bến không chồng (1990), Trần gian đời người(1991), Bóng đêm mặt trời (1998) và Dưới chín tầng trời (2007). Tuy thành công ở cả hai thể loại, nhưng có lẽ người đọc biết đến ông nhiều hơn là ở thể loại tiểu thuyết.
           Trong bốn cuốn tiểu thuyết của nhà văn thì Bến không chồng và Dưới chín tầng trời được coi là hai tác phẩm thành công hơn cả. Khi hai tác phẩm ra đời đã phần nào làm cho văn đàn trở nên sôi động, náo nhiệt. Bến không chồng xuất bản năm 1990 thì năm sau (1991) nó được trao Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và đến nay tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị. Tác phẩm đã được tái bản 11 lần và có lẽ nó vẫn sẽ được tái bản nhiều lần nữa. Không những thế, nó còn được dựng thành phim và được dịch ra tiếng Ý, tiếng Pháp. Là tác phẩm có độ dầy 300 trang, Bến không chồng lấy nhân vật trung tâm là những người phụ nữ ở nông thôn trong bối cảnh nông thôn Việt Nam (mà cụ thể là cái làng Đông) vừa kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp và đang tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chiến tranh dù nó đã đi qua nhưng những dấu ấn thương tích mà nó để lại cho con người còn tiếp tục kéo dài, và có thể nói người phải gánh chịu nhiều nhất là những người phụ nữ. Đọc tác phẩm có lẽ người đọc sẽ không thể quên được những người phụ nữ như Hạnh, Thắm, Dâu, Cúc, Nhài... với ước mơ giản dị là được làm vợ, làm mẹ, được sống yêu ổn dưới mái nhà của mình mà sao thật khó khăn. Họ đều là những người phụ nữ “không chồng” theo đúng như cái tên của tác phẩm. Với tiểu thuyết Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng đã đem đến cho bạn đọc một cái nhìn mới, một cảm xúc mới về lịch sử - một lịch sử quá nghiệt ngã đối với dân tộc thông qua những số phận bi kịch. Tác phẩm tuy không “có cái sắc sảo, riết róng của Mảnh đất lắm người nhiều ma; không có cái chiều sâu thâm trầm đến ám ảnh của Nỗi buồn chiến tranh...” (16) nhưng với sức nặng trong đề tài cùng phương thức thể hiện truyền thống với “cốt truyện mộc mạc và chân phương, trong cách dẫn dắt và ngôn từ - một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên” (16) đã khẳng định được giá trị của nó trong lòng độc giả.
          Sau Bến không chồng mười lăm năm sau, cuốn tiểu thuyết Dưới chín tầng trời lại một lần nữa làm cho chúng ta bất ngờ. Tác phẩm đã lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức. Trước Dưới chín tầng trời nhà văn đã cho xuất bản hai cuốn tiểu thuyết khác (Bóng đêm mặt trời, Trần gian đời người) nhưng nó đều bị Bến không chồng che khuất. Trong hai tác phẩm đó thì Trần gian đời người như là một lời nhắn gửi của tác giả về cuốn tiểu thuyết mới của mình – Dưới chín tầng trời. Dưới chín tầng trời là một tác phẩm đã được định hướng khá sớm và mang nhiều tâm huyết của nhà văn. Và qua tiểu thuyết này một lần nữa nhà văn khẳng định quan niệm sáng tác của mình: “Nhiệm vụ cao cả của nhà văn là tìm cái chân, cái thiện, cái mỹ và chống cái ác. Có viết về cái ác cũng để cho cái thiện trường tồn...”. Ban đầu tác phẩm được nhà văn đặt tên là Bóng quỷ, sau lại đổi là Cửu trùng đài, rồi cuối cùng khi mang đi xuất bản nhà văn lấy cái tên nghe nhẹ nhàng hơn, dản dị hơn nhưng lại bao quát được tư tưởng chủ đề của tác phẩm – Dưới chín tầng trời. Khi được hỏi về tác phẩm, nhà văn tâm sự “Dưới chín tầng trời chính là nới chúng ta đang sống, là hạnh phúc khổ đau, là niềm vui nỗi buồn. Con người bị dồn đẩy đến cùng đường sẽ có sức mạnh bung phá ghê gớm. Nó giống như chiếc lò xo, càng nén mạnh càng bật căng... Dưới chín tầng trời, con người ở tầng thấp nhất, nơi ấy có mọi niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc khổ đau của tôi, của tất cả chúng ta. Trời trong xanh ấm áp chúng ta hưởng, trời nổi cơn thịnh nộ gieo sóng gió dông bão, chúng ta chịu”(22). Đọc Dưới chín tầng trời người đọc sẽ cảm nhận được những bước đi của lịch sử qua từng số phận của mỗi người dân làng Đoài: Gia đình Hoàng Kỳ, tỉ phú Đào Kinh, Đào Vương, Đào Thanh Măng, mẹ con bà Cháo... và những nhân vật có liên quan đến làng Đoài như: Trần Tăng, gia đình thương gia Đức Cường, Thu Cúc... Mặc dù trung thành với cái khung của tiểu thuyết truyền thống (trong thời kỳ mà các nhà tiểu hiện nay đang tìm mọi cách để cách tân kỹ thuật viết) nhưng Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng vẫn vượt lên nhiều tiểu thuyết khác và khẳng định vị trí của mình về cả quy mô lẫn tầm vóc phản ánh.
          Bên cạnh những thành công trong tiểu thuyết nhà văn Dương Hướng còn có những thành công nhất định ở thể loại truyện ngắn. Cũng như nhiều nhà văn khác, khi bắt đầu viết văn Dương Hướng chọn thể loại truyện ngắn để thử sức với tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Gót son xuất bản năm 1989. Tuy không gặt hái được nhiều thành công như tiểu thuyết nhưng là bước đệm cho con đường sáng tác của nhà văn. Sau tập truyện ngắn này, năm 1995 nhà văn Dương Hướng xuất bản tiếp tập truyện ngắn Người đàn bà trên bãi tắm. Ở thể loại này, nhà văn Dương Hướng cũng giành được những thành quả đáng kể: năm 1990, truyện ngắn Đêm trăng được trao Giải thưởng Văn nghệ quân đội; năm 1997, ông nhận được Giải thưởng Hạ Long cho truyện ngắn Người đàn bà trên bãi tắm. Để có được những thành công trên cũng như sự yêu mến của độc giả đó là cả quá trình rèn luyện, phấn đấu không ngừng nghỉ của nhà văn Dương Hướng.
         Có thể thấy, bước vào nghiệp văn khi đã 40 tuổi, với những bước tiến tuy “chậm mà chắc”, Dương Hướng đã gặt hái được không ít thành công và có nhiều đóng góp đối với nền văn học đương đại Việt Nam, đặc biệt là với thể loại tiểu thuyết. Dương Hướng không làm người đọc ngạc nhiên và hứng thú với những cách tân mới lạ trong tác phẩm của mình giống như nhiều nhà văn cùng thời. Ông vẫn trung thành với truyền thống. Mặc dù vậy, tác phẩm của ông vẫn cuốn hút bạn đọc đến lạ kỳ. Tuy viết theo mô hình cốt truyện truyện truyền thống, nhưng tiểu thuyết của Dương Hướng đã nhận được nhiều sự ưu ái từ phía bạn đọc, có lẽ là bởi tài dẫn truyện khéo léo mà rất tự nhiên, vẫn thật như đời thường vậy. Không chỉ thế, người đọc luôn tìm thấy sự gần gũi, thân thuộc qua lời ăn tiếng nói của các nhân vật trong truyện. Cái tính bỗ bã, nói năng tâng tâng, chẳng cần ý tứ lại đặc sệt nhà quê của tác giả đã tạo nên sự “quyến rũ” cho mỗi tác phẩm của ông đối với độc giả. Đọc Bến không chồng, chắc hẳn chúng ta sẽ không quên chi tiết đầu tiên với hình ảnh nhân vật Nguyễn Vạn, ngực đầy huân chương, tấp tểnh về làng, đứng trên con đê lộng gió, vén quần “đái cái đã”. Cái mộc mạc chân chất, cái chất “quê một cục”này, phải chăng là chất liệu chính tạo nên phong cách riêng cho một nhà văn luôn “Dương Hướng”.
          Nói về nghiệp văn chương của mình, Dương Hướng từng tâm sự: “Khi viết tôi không quan tâm đến chuyện mới hay cũ, đối tượng độc giả già hay trẻ. Quan trọng là cái tâm của người cầm bút nói được tiếng nói của nhân dân, nỗi lòng của người cần lao”(22). Đúng như vậy. Những đề tài Dương Hướng đề cập tới trong tác phẩm của ông không phải là những đề tài mới. Tuy nhiên, với sự sắc sảo và nhạy bén cộng với sự dũng cảm và mạnh dạn, Dương Hướng là một trong số ít những nhà văn lúc đó dám đi sâu vào nỗi “thâm cung bi sử”. Ông đã dám len lỏi vào những vấn đề tế nhị, nhạy cảm của xã hội thời hậu chiến và công cuộc đổi mới đất nước mà nhiều người đã phải giả vờ giả tảng lờ đi, để đem đến cho độc giả cái nhìn đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn, đúng đắn hơn về thực tế xã hội lúc bấy giờ. Sự ra đời của tiểu thuyết Bến không chồng, ở thời điểm đầu những năm 90 của thế Kỷ XX quả đã “góp được một cái nhìn mới mẻ về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến, kéo dài những mấy chục năm; với gánh nặng không phải là chỉ chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con người trong thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử để lại” không đủ tầm và sức để vượt qua nó”(16). Đó còn là những thử thách của việc phát động quần chúng Cải cách ruộng đất, phong trào Hợp tác xã, là những nề nếp tâm lý, ý thức vẫn còn nguyên sự hủ lậu chưa thể thay đổi ngay trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu với tâm lý làng xã lưu cữu ngàn đời. Tất cả gom lại làm nên những nguyên cớ cho mọi tai họa mà con người phải nhẫn nhịn chịu đựng trong một thời gian dài như một áp đặt của định mệnh. Chỉ đến giai đoạn chuyển giao giữa hai thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, con người mới chợt bừng tỉnh và nhận ra mình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân của lịch sử. Người đọc không khỏi lặng đi suy nghĩ khi đọc những câu văn: “Con cắn rơm, con cắn cỏ con lạy ông... Ông hãy cứu lấy thằng Tốn. Nếu không các ông nông dân con sẽ giết chết nó. Nó không có tội gì... Con xin hứa sẽ giáo dục thằng Tốn sau này nó tở thành kẻ nghèo khó...”(23). Một sự thật thật khủng khiếp! Đoạn văn này là lời của mụ Hơn cầu xin Vạn trong tiểu thuyết Bến không chồng có lẽ đã làm đảo lộn tất cả. Ta những tưởng bị một cú đập mạnh vào đầu và cú đập đó đã làm ta tỉnh ra. Như vậy, Dương Hướng đã mở đường cho văn học đổi mới bứt phá. Nhà văn đã làm cho tiểu thuyết đương đại rẽ ngang, đi chệch khỏi con đường mòn của văn học Việt Nam. Nó chấm dứt thời kỳ người cầm bút chỉ biết minh họa và thuyết minh. Hơn thế nữa, nó gắn nối hai thời kỳ chống Pháp và chống Mĩ, gắn nối hai thử thách của chiến tranh và thử thách của thời bình, gắn nối số phận cá nhân, gia đình, dòng họ với đất nước. Qua những tác phẩm của ông, đặc biệt là về tiểu thuyết, người đọc khám phá thêm nhiều góc cạnh khác nhau của xã hội thời chiến cũng như thời hậu chiến qua cái nhìn đầy biện chứng.
          Trong những sáng tác của nhà văn Dương Hướng, người đọc dễ nhận ra không có nhiều sự đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Vẫn trung thành với lối viết truyền thống đầy mộc mạc nhưng tác phẩm của nhà văn Dương Hướng vẫn tạo nên được một lực hút rất lớn đối với độc giả. Minh chứng cho điều này là sự thành công của hai vang dội của hai cuốn tiểu thuyết Bến không chồngDưới chín tầng trời. Với cốt truyện cũng như những thi pháp xây dựng nhân vật và tính cách theo mô hình truyền thống, hai tác phẩm này đã làm cho cả văn đàn nghiêng ngả. Hay nói cách khác, dưới ngòi bút tài năng của Dương Hướng, những thi pháp truyền thống vươn lên bứt phá ngoại mục trước những thi pháp hiện đại đang được ưu ái trong tiểu thuyết đương đại. Bên cạnh đó, là một người cần mẫn, miệt mài lao động không ngừng trên cánh đồng văn chương, Dương Hướng không bảo thủ chỉ biết rập khuân theo những thi pháp truyền thống mà còn góp nhặt cho mình những tinh hoa trong thi pháp hiện đại để giúp ngòi bút của mình phản ánh được sâu hơn, rộng hơn những vấn đề của thời đại.
          Trong một bài phỏng vấn, nhà văn Dương Hướng tâm sự: “Hiện thực cuộc sống đầy sôi động ở mọi mặt. Nhưng điều quan trọng của nhà văn là phải trăn trở để viết thế nào chứ không phải viết cái gì. Quan trọng hơn lại vẫn là tác phẩm của anh nói được điều gì.” (22). Phải chăng, vì lẽ đó mà những đóng góp của nhà văn Dương Hướng cho nền văn học nước nhà không phải là sự cách tân trong cách viết, tác phẩm của ông không phải là những “của lạ” mà là ở sự mộc mạc, nguyên sơ, cổ điển trong phong cách, là ở cách nhìn đầy mới mẻ về xã hội, về cuộc sống.




CHƯƠNG 2: NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI CỦA NHÀ VĂN DƯƠNG HƯỚNG.

·                    Lý luận chung về nhân vật.
Trung tâm của mọi tác phẩm văn học là nhân vật. Nhân vật “là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”( 14,645). Chính vì thế khi bắt đầu sáng tác điều đầu tiên mà nhà văn nghĩ đến là nhân vật. Qua nhân vật nhà văn giãi bày những tư tưởng, những suy nghĩ, tình cảm, hay cách tiếp nhận cũng như cách giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Đồng thời thông qua nhân vật, nhà văn cũng thể nghiệm những tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật của mình. Có thể nói khi nhân vật hình thành thì coi như tác phẩm của nhà văn đã được định hình. Nhân vật là nơi thâu tóm mọi ý đồ của tác giả. Và nếu nhân vật càng chân thật và sống động thì sức sống của tác phẩm càng mạnh mẽ và bền lâu với thời gian. Đối với độc giả thì nhân vật không chỉ là phương tiện kết nối với nhà văn mà còn là người dẫn dắt họ vào một thế giới riêng trong ở những thời kỳ lịch sử nhất định. Văn học chỉ có thể là “tấm gương phản chiếu đời sống” thông qua phương tiện chủ yếu của nó chính là nhân vật.
         Trong văn học nhân vật được hiểu rất rộng. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu phê bình văn học Lại Nguyên Ân cho rằng: nhân vật là “hình tượng nghệ thuật về con người... có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được người ta gắn cho những đặc điểm giống với con người ... Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không bị đồng nhất với con người thực”( 6,249-250). Như vậy, nhân vật không phải chỉ là con người mà còn là các loài cây, là con vật, sự vật mang tính cách, tình cảm, hình dáng của con người. Ví dụ như nhân vật Dế Mèn, Bọ Ngựa, cô nhà Trò, con mèo lười trong truyện thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài, là chúa sơn lâm trong thơ Thế Lữ, là những bông hoa hồng, là vầng trăng trong thơ Bác, là trăng trong thơ Hàn Mặc Tử.... Không những thế trong văn học phương tây còn xuất hiện loại nhân vật hóa thân. Ban đầu họ vẫn là con người nhưng sau do một lý do nào đó họ hóa thành con vật. Tuy nhiên chỉ hình dáng bề ngoài của họ là đội lốt con vật còn tâm tư tình cảm của họ vẫn là của con người. Loại nhân vật này ta thường thấy trong tác phẩm của Kapfka. Chính sự phong phú, đa dạng về nhân vật làm cho văn học phản ánh hiện thực cuộc sống được cả bề rộng lẫn chiều sâu; đồng thời lại phù hợp với từng đối tượng độc giả. Và cũng do sự đa dạng về loại hình nhân vật nên khi phân loại nhân vật người ta thường phải dựa vào những tiêu chí khác nhau. Nếu xét đến vai trò của nhân vật trong tác phẩm, ta có nhân vật chính, nhân vật phụ, và nhân vật trung tâm. Xét về hệ tư tưởng của nhà văn hoặc quan hệ đối với lý tưởng của nhà văn thì ta có nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (còn gọi là nhân vật tiêu cực). Tuy nhiên, khi phân loại nhân vật theo tiêu chí này ta cần phải lưu ý đến quan niệm đạo đức của từng thời đại, cũng như từng nền văn hóa khác nhau. Mặt khác, trong văn học hiện nay ta thường  thấy hiện tượng giao thoa giữa hai loại hình nhân vật này. Có nghĩa là trong một nhân vật có cả những mặt tiêu cực và tích cực, cho nên ta không nên phân loại một cách máy móc và áp đặt. Bên cạnh đó còn có loại nhân vật tư tưởng. Những nhân vật này thường được nhà văn sáng tạo nên để minh họa cho tư tưởng của nhà văn hoặc của thời đại: Độ trong Đôi mắt (Nam Cao), Giave, Giăng Van Giăng trong Những người khốn khổ (V. Huygô). Ngoài ra, trong văn học cổ đại ta thường thấy sự xuất hiện loại hình nhân vật chức năng. Những nhân vật này chỉ thực hiện một số những chức năng nhất định như ban phát hành phúc: ông bụt, cô tiên, bà tiên.. hay chức năng cản trở, hãm hại người tốt: phù thủy. Tuy nhiên sự phân loại trên cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi khi văn học càng đào sâu, áp sát đời sống thì sự xuất hiện của những con người mới trong văn học là điều không thể tránh khỏi.
         Ta cũng cần phân biệt giữa nhân vật với tính cáchtính cách điển hình. Trong văn học, nhân vật được coi là khái niệm chung, “mới là hình ảnh con người”, tính cách là “hình tượng về con người”, tính cách điển hình chính là “điển hình về con người”( 4,128). Tính cách có vai trò rất quan trọng trong văn học. Tính cách chính là “điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức”(Hêghen). Về nội dung, tính cách làm nhiệm vụ cụ thể hóa chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Về hình thức, có thể nói tính cách là yếu tố tạo nên những xung đột cũng như sắp xếp các sự kiện trong cốt truyện của tác phẩm. Hay nói như Đôtsxtôiepxki: “Đối với nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính cách”.
Tiểu thuyết là một thể loại tự sự nên nhân vật cũng được coi là một trong những yếu tố cốt tử. Có thể nói “nhân vật trong tiểu thuyết là hạt nhân của sự sáng tạo nghệ thuật, là “trọng điểm” để nhân vật lý giải mọi vấn đề của đời sống xã hội”(191,4). Nhân vật chính là trung tâm của tiểu thuyết. Từ nhân vật sẽ đưa nhà văn đến những sáng tạo nghệ thuật khác: chọn chi tiết, cốt truyện, tình huống... Những cuốn tiểu thuyết lớn vượt qua được lớp bụi của thời gian đều là những tác phẩm có sự sáng tạo bậc thầy trong cách xây dựng nhân vật: Đônkihôtê của Xecvantec, Chiến tranh và hòa bình, Annakarênina của L.Tônxtôi,  AQ chính truyện của Lỗ Tấn, Chí Phèo của Nam Cao... Với đặc trưng về thể loại, tiểu thuyết không chỉ có khả năng miêu tả một cách tỉ mỉ và khá toàn diện về cuộc đời của nhân vật mà còn đưa vào nó một khối lượng nhân vật đồ sộ. Với số lượng nhân vật lớn khả năng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết rộng hơn đồng thời có thể đi sâu vào khám phá những ngóc ngách của đời sống thông qua những số phận cá nhân. Còn đối với độc giả, nhân vật trong tiểu thuyết chính là cái chìa khóa để giải mã những vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm. Như vậy, nhân vật là vấn đề trung tâm trong sáng tạo nghệ thuật của nhà tiểu thuyết. Nhân vật chính là sức mạnh của cuốn tiểu thuyết.
·                    Nhân vật trong tiểu thuyết đương đại.
Giống như một dòng sông, mải miết và lặng lẽ, từ khi có mặt trên văn đàn Việt Nam cho đến nay, tiểu thuyết đương đại đã góp phần tạo nên diện mạo cho nền văn học nước nhà. Trải qua bao thăng trầm cùng những biến cố của lịch sử, tiểu thuyết vẫn tồn tại và phát triển. Nhìn khái quát vào tiểu thuyết đương đại ta thấy đang có những vận động đáng mừng. Từ những đổi mới trong “tư duy tiểu thuyết  kéo theo sự đổi mới trong phương thức biểu hiện đã làm cho tiểu thuyết đương đại Việt Nam đa màu sắc hơn. Các nhà tiểu thuyết đang cố gắng tìm kiếm những phương thức nghệ thuật biểu hiện mới cho tiểu thuyết sao cho nó phản ánh một cách đầy đủ hơn về những vấn đề đang diễn ra trong xã hội cũng như con người của thời đại. Có thể nói, mọi sự đổi mới trong tiểu thuyết cũng như các thể loại văn học khác đều phục vụ cho con người, đều hướng tới con người. Để làm được điều đó, bên cạnh những thay đổi trong kĩ thuật viết tiểu thuyết thì nhân vật trong tiểu thuyết cũng có sự vận động rất rõ nét. Sự vận động đó diễn ra ở cả số lượng lẫn phương diện hình tượng nhân vật.
Trong thời đại hiện nay, tiểu thuyết đang có xu hướng rút ngắn về dung lượng kéo theo sự biến động về số lượng nhân vật trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết đương đại đang có hiện tượng “giản lược về nhân vật”. Nếu tiểu thuyết trước đây có khoảng hàng chục, đôi khi lên đến hàng trăm nhân vật thì tiểu thuyết hiện nay chỉ có một vài nhân vật chính. Trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh có duy nhất một nhân vật chính là Kiên - mọi biến cố, sự kiện đều xoay quanh những kí ức, những ám ảnh về chiến tranh của nhân vật này; hay trong hầu hết các sáng tác của Tạ Duy Anh đều chỉ có một nhân vật: Thiên thần xám hối nhân vật chính là đứa bé trong bụng mẹ, Lão Khổ là nhân vật Lão Khổ; trong Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh là nhân vật xưng tôi (người kể chuyện)... Và mặc dù có sự giản lược về dung lượng cũng như về nhân vật nhưng không làm giảm đi giá trị soi chiếu đời sống của tiểu thuyết. Điều này cũng được nhà văn Tạ Duy Anh khẳng định: “Xu hướng ngắn, thu hẹp bề ngang, vừa khoan sâu chiều dọc, đa thanh hóa sự đối thoại, chiều vỉa ý nghĩa, bi kịch thời đại dược dồn nén trong một cuộc đời bình thường, không áp đặt chân lí là dễ thấy. Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách của nó, ở đó con người có thể chiêm ngưỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử”(17). Sự dồn nén về dung lượng cũng như sự giản lược nhân vật trong tiểu thuyết giống như một cái lò so, càng nén thì sức bật của nó càng lớn. Bên cạnh đó, tiểu thuyết viết theo mô hình truyền thống tuy không nhiều nhưng vẫn khẳng định được vị trí của nó trên văn đàn như: Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng... Với độ dày 500 trang và gần 100 nhân vật nhưng nó cũng gây nên không ít xôn xao trên văn đàn.
Cuộc sống càng phức tạp thì bản chất con người càng khó nắm bắt, cũng chính vì thế các nhà tiểu thuyết hôm nay không ngừng tìm kiếm nhân vật cho mình để cố gắng phản ánh một cách trung thực nhất con người của thời đại. Nhìn lại quá trình phát triển của tiểu thuyết từ thời kỳ đổi mới đến nay, nhà nghiên cứu phê bình văn học Bùi Việt Thắng cho rằng tiểu thuyết đương đại Việt Nam có bốn kiểu nhân vật cơ bản là: nhân vật bi kịch, nhân vật anh hùng, nhân vật kỳ dị và nhân vật lập thân. Về nhân vật bi kịch, do hoàn cảnh của lịch sử nên trước năm 1975 ít xuất hiện, nhưng sau khi đất nước được giải phóng, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới (1986) thì “cái bi kịch được vận dụng như một hình thức hữu hiệu để tái hiện đời sống”(130,2) trong toàn bộ tính chất bi tráng của lịch sử Việt Nam. Có thể kể đến các nhân vật mang tính chất bi kịch như: Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu, Hạnh trong Bến Không chồng,gia đình thương gia Đức Cường, gia đình Hoàng Kỳ trong Dưới chín tầng trời của Dương Hướng, Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai... Những nhân vật này giúp cho người đọc thấu suốt được con người của lịch sử đồng thời nó giúp ta chống lại “sự lãng quên của con người” (Kundera). Như vậy có thể nói nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết là kiểu nhân vật giúp “thanh lọc tâm hồn con người”. Nhân vật anh hùng là kiểu nhân vật thường xuất hiện trong những tiểu thuyết viết về hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Tuy nhiên trong khi đất nước bước sang một bước ngoặt mới thì hình tượng về nhân vật này cũng có nhưng nét khác trước. Giờ đây đó là những con người đang hối hả dây dựng lại đất nước, là những con người đấu tranh chống lại cái ác để bảo vệ trật tự và sự thanh bình trong xã hội. Nhân vật lập thân là một kiểu nhân vật khá mới trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Ta có thể thấy những nhân vật này trong tác phẩm của Nguyễn Phúc Lộc Thành (Cõi nhân gian), Đặng Thiều Quang (Hoen gỉ), Nguyễn Việt Hà ( Cơ hội của chúa)... Nhân vật kì dị là kiểu nhân vật có thể nói là đã rải rác xuất hiện trong văn học Việt Nam. Thông qua những con người kì dị nhà văn đi đến khái quát, phản ánh những chân lí của đời sống. Ta bắt gặp tính kì dị của nhân vật trong: Thân phận của tình yêu Bảo Ninh, Đêm thánh nhân của Nguyễn Đình Chính, Hai nhà của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng...
         Như vậy, có thể thấy so với những thời kỳ trước, nhân vật trong tiểu thuyết đương đại đã có nhiều biến đổi để phù hợp với nhu cầu của thời đại. Một mặt, nhân vật có sự “co lại” về số lượng để thích ứng với thực tế cuộc sống. Nhưng mặt khác, nhân vật lại trở lên “phức hợp”, đa diện hơn với những nét tính cách đa dạng, nhiều chiều, thực hơn với con người của thời đại.
·        . Nhân vật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng.
   2.3.1. Hệ thống nhân vật.
Dưới chín tầng trời là cuốn tiểu thuyết quy mô nhất của nhà văn Dương Hướng cho đến nay. Tác phẩm gồm 33 chương với 500 trang sách, bao quát cả một thời kỳ dài (hơn nửa thế kỷ ) của lịch sử Việt Nam và một không gian rộng lớn. Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là cái tình người được nhà văn khắc họa một cách khá đậm nét. Trong những biến cố dữ dội của xã hội đã cuốn theo số phận của mỗi con người làng Đoài, dù có những thù hận, những lầm lạc, những bi kịch nhưng cuối cùng họ vẫn ngộ ra được chữ Tình. Có thể nói “Dưới chín tầng trời là trần gian với đủ sắc màu, là ánh sáng và bống tối, là hạnh phúc và khổ đau là vinh quang và đầy cay đắng... Và, Dưới chìn tầng trời cũng có biết bao điều kỳ diệu...”(24). Điều kỳ diệu đó phải chăng chính là cái tình giữa con người với con người, cái tình với làng xóm, với quê hương đất nước? Và Dưới chín tầng trời có lẽ cũng là cái tâm của người cầm bút tri ân lại đối với quê hương, với dân tộc.
Là một cuốn tiểu thuyết viết theo mô hình truyền thống – tiểu thuyết sử thi, nên số lượng nhân vật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời không giới hạn ở một vài nhân vật như những cuốn tiểu thuyết đương thời. Dưới chín tầng trời có hơn 100 nhân vật và ở đủ các tầng lớp xã hội khác nhau: từ anh nông dân như Đào Kinh, cô Cam, mẹ con bà Cháo, cô Lùn..., những người buôn bán, cán bộ xã như Yến Quyên, Tuyết..., thương gia Đức Cường, những người lính ở cả hai chiến tuyến như Hoàng Kỳ Nam, Đào Vương, Hall..., đến cán bộ cách mạng như Hoàng Kỳ Trung, Thu Cúc, cán bộ cấp cao Trần Tăng. Tất cả đều hiện lên hết sức sinh động. Trong tầng tầng lớp lớp nhân vật đó thì có khoảng 20 nhân vật xuất hiện thường xuyên trong các chương của tiểu thuyết. Đặc biệt, những nhân vật này chủ yếu là những người dân làng Đoài. Nhưng không như trong Bến không chồng, từ cái trung tâm làng Đoài những con người này tỏa đi nhiều hướng trên khắp các nẻo đường của đất nước. Nguyên nhân ra đi của họ không phải hoàn toàn là sự tự nguyện mà phần nhiều là do sự xô đẩy của xã hội, của lịch sử. Và dù bị “quăng quật” trên dòng đời đầy biến động nhưng họ vẫn cố gắng vươn lên để tồn tại rồi trở lại góp phần xây dựng quê hương. Trong Dưới chín tầng trời có hai nhân vật không phải là người làng Đoài nhưng lại có ảnh hưởng không nhỏ tới những người dân nơi đây và được nhà văn Dương Hướng chăm sóc khá kỹ là nhân vật Trần Tăng và Thu Cúc. Trong hai nhân vật này thì Trần Tăng là người có uy quyền rất lớn đối với những người dân làng Đoài. Mọi sóng gió, biến động ở làng Đoài đều liên quan đến Trần Tăng. Qua Trần Tăng ta dường như thấy được những hạn chế, những sai lầm của lịch sử. Đọc Dưới chín tầng trời người đọc nhận ra mỗi nhân vật trong tác phẩm đều là “ một thân phận trĩu nặng một vấn đề của nhân tình thế thái” (15). Dù mỗi người một hoàn cảnh, một cảnh ngộ khác nhau nhưng tựu trung lại đó là những số phận bi kịch. Và góp nhặt những bi kịch của mỗi thân phận trong Dưới chín tầng trời sẽ làm nên cái diện mạo của nhân vật lớn mà nhà văn muốn khắc họa: Lịch sử. Trong quá trình phát triển của mình, lịch sử cũng có những bước đi sai lầm, cũng có những tụt hậu để rồi từ đó nó vươn mình đứng lên mạnh mẽ hơn. Là một nhà văn có tâm, Dương Hướng không hề né tránh điều đó và mang đến cho bạn đọc cái nhìn chân thực về cái góc khuất của lịch sử mà ai cũng biết nhưng lại có rất ít người dám nói ra thông qua những số phận bi kịch của mình. Tuy nhiên khi gấp sách lại, cái đọng lại trong lòng người đọc chính là niềm tin vào con người, là niềm tin vào một ngày mai sẽ khác trước – một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, nhân vật trong Dưới chín tầng trời rất đa dạng với một số lượng lớn. Các nhân vật ở nhiều tầng lớp khác nhau, chia thành nhiều tuyến đan xen, cài chéo vào nhau tạo thành hệ thống nhân vật tầng tầng, lớp lớp. Mặc dù thế, ta vẫn dễ dàng nhận ra sự phân tách nhân vật thành: những người dân làng Đoài và những người có ảnh hưởng tới cuộc sống của những người dân làng Đoài trong Dưới chín tầng trời. Trong khóa luận này chúng tôi sẽ đi vào phân tích những nhân vật tiêu biểu trong hai tuyến nhân vật trên để làm nổi bật lên tính chất bi kịch của họ đồng thời phác họa bộ mặt của nhân vật lớn – lịch sử. Cũng thông qua đó khái quát lại cái tư tưởng, chủ đề của tác phẩm cũng như những nhắn gửi đầy tâm huyết của nhà văn tới bạn đọc.
    2.3.2. Nhân vật bi kịch trong Dưới chín tầng trời.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi khi tổng kết về nghề viết của mình đã từng nói: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu thuyết theo tôi là miêu tả những con người và tìm hiểu con đường đi của họ trong xã hội. Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc”. (14,645) Điều này có lẽ rất đúng đối với Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng. Có thể nói là thành công và sức mạnh của cuốn tiểu thuyết này chính là nhân vật. Mỗi nhân vật dù ở tầng lớp nào cũng hiện lên rất sinh động, mang những nét cá tính riêng.
·        Những người dân làng Đoài.
Có thể nói, đa số nhân vật trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là những người dân làng Đoài. Tuy nhiên từ những số phận của những người dân nơi đây lại có sức khái quát phản ánh chung cho tất cả những biến động của đất nước. Một làng Đoài cũng như bao nhiêu làng quê khác ở miền Bắc Việt Nam, đã trải qua một cuộc cách mạng và ba cuộc chiến tranh với những hậu quả của nó kéo dài của nó gắn với những khó khăn, bế tắc trong thời kỳ hậu chiến rồi sau đó được giải tỏa trong thời kỳ đổi mới khi nước ta bước vào thời kỳ hội nhập và mở cửa. Những con người nơi đây trong cuộc hành trình của cuộc đời mình là sợi dây nối kết với những số phận của những kiếp người ở khắp mọi miền đất nước. Họ dù là người ra đi hay ở lại, tất cả đều mang trong mình những nỗi đau của một thời đại không bao giờ có thể quên. Một thời đại với bao biến động dữ dội mà những ai sống trong thời đó không thể không có những va đập và bị hút vào vòng xoáy của nó hình thành nên những bi kịch mang tính thời đại. Có thể nói, không một ai có thể thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của lịch sử. Và mỗi người dân làng Đoài dù ít hay nhiều đều mang trong mình những bi kịch của thời đại. Tuy nhiên, họ có đững vững được trước những biến động của lịch sử hay không lại phụ thuộc vào cách ứng xử của họ với thời cuộc. Và điều này tạo nên những nét khác biệt trong mỗi số phận bi kịch của Dưới chín tầng trời.
Đọc tiểu thuyết Dưới chín tầng trời có lẽ ấn tượng đầu tiên với người đọc sẽ là gia tộc Hoàng Kỳ - là một gia tộc từ đỉnh cao danh vọng đến thẳm sâu của sự bất hạnh trong biến thiên của lịch sử. Có lẽ đây cũng là gia tộc đầu tiên phải hứng chịu những vòng xoáy của cơn lốc thời đại. Gia tộc Hoàng Kỳ giàu có nhờ vào việc buôn bán thuốc lào với các thương gia trong nước và cả những bạn hàng ở nước ngoài. Và đã có lần Bộ trưởng bộ ngoại thương Phan Anh về thăm gia đình Hoàng Kỳ. Tuy giàu có nhưng gia tộc Hoàng Kỳ lại sống rất có tình có nghĩa với bà con xóm làng. Mỗi năm đến ngày rằm tháng tám là ông Hoàng Kỳ Bắc lại trở về làng tổ chức hội đình Đoài để phục vụ bà con: “Đêm hội đình Đoài, Nam và lũ trẻ được xem thắp đèn kéo quân, thả đèn giời và nghe hát chầu văn”(24,45-46). Khi Hoàng Kỳ Trung lớn cũng như bao thanh niên khác theo tiếng gọi của đất nước lên đường đi kháng chiến. Thế nhưng gia đình này lại là nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất diễn ra ở miền Bắc. Gia đình Hoàng Kỳ Bắc bị quy oan là địa chủ cường hào, việt gian phản động bị đưa ra đấu tố và phải chịu án tử hình, nhà cửa, của cải bị sung công và chia cho nhân dân. Mặc dù người dân làng Đoài đều mơ hồ nhận ra sự vô lí ở đây nhưng không dám kháng cự lại hoặc nếu  chống lại họ cũng sẽ bị cỗ máy lịch sử nghiền nát như gia đình Hoàng Kỳ. Một thời kỳ lịch sử đau thương đến bây giờ vẫn để lại nỗi đau đầy ám ảnh trong mỗi con người đã từng sống, từng chứng kiến cơn bão tố của nó. Bà Hoàng Kỳ phải dùng cái chết để chứng minh cho sự trong sạch và bảo vệ danh dự cho gia đình. Và cái chết của ông bà Hoàng Kỳ cũng như sự phá sản của gia đình này đã để lại những vết thương khắc sâu trong lòng mỗi người dân làng Đoài. Có thể nói, cái bi kịch của gia đình Hoàng Kỳ là do sai lầm của lịch sử đem lại - cái sai lầm mà các nhân vật đều cho là cái “tai nạn” của thời đại. Cái tai nạn đó ít nhiều tác động tới tất cả những người dân làng Đoài làm cho “méo mó, què quặt tâm hồn con người”(24,469). Trong cơn bão táp của thời đại đó có lẽ người đọc sẽ ấn tượng với nhân vật Yến Quyên – con dâu gia tộc Hoàng Kỳ.
Là con dâu của  Hoàng Kỳ Bắc, vợ của Hoàng Kỳ Trung, mẹ của Hoàng Kỳ Nam, Yến Quyên phải gánh chịu những tai biến của lịch sử đưa đến gia đình. Bị quy là gia đình địa chủ, Hoàng Kỳ Trung lại đi kháng chiến biền biệt không về, ở nhà một mình Yến Quyên phải chống chọi với những sóng gió của lịch sử mà đại diện là Trần Tăng đổ lên gia đình chồng. Khi đến làng Đoài với chức danh là cán bộ cải cách ruộng đất, Trần Tăng mê đắm trước vẻ đẹp của Yến Quyên. Ông ta đã tìm mọi cách để chiếm đoạt cô từ dụ dỗ bằng những lời ngon ngọt đến những lời đe dọa: “ Yến Quyên ơi! Anh đi khắp thế gian không gặp được người đàn bà đẹp như em. Em có biết tại sao anh phải liều cứu em và mẹ chồng em khỏi phải giam trong đình đêm qua không? Anh cứu em bởi em đẹp quá khiến anh không cầm lòng... Chiều anh, anh sẽ tha tội cho cả bó mẹ chồng em, nếu không anh bắn bỏ tuốt.....”( 24,82). Nhiều lúc tưởng chừng như Yến Quyên không thể trụ vững nổi trước những sóng gió cứ dồn dập kéo đến nhưng Yến Quyên đã chiến thắng. Cô kiên quyết giữ vững lòng chung thủy đối với chồng và làm tròn nghĩa vụ của một người con dâu của gia đình Hoàng Kỳ. Không những thế, Yến Quyên còn là người hăng hái tham gia các hoạt động xã hội. Là một người sống có tình nghĩa, lại biết yêu thương đồng ruộng, cô hiểu được con người cũng như mảnh đất nơi đây. Yến Quyên được dân làng Đoài bầu vào ban cán bộ của xã rồi làm chủ nhiệm xã bởi cô có “một tấm lòng bao dung, một tình thương yêu thật sự với người dân làng Đoài nghèo khổ”( 24,341) mặc dù lí lịch của gia đình cô không được trong sạch. Là một người phụ nữ thông minh, Yến Quyên đã phát hiện ra những sai trái, những yếu kém cũng như những hạn chế trong cái phong trào hợp tác xã ở quê mình: “Từ ngày có hợp tác xã, người nông dân dửng dưng với đồng ruộng. Làm ăn chểnh mảng, ai cũng chỉ nghĩ làm thế nào để có nhiều điểm chứ không nghĩ làm thế nào để có nhiều thóc... Nông dân ta vốn  xưa coi ruộng đồng tấc đất tấc vàng, thức khuya dậy sớm vì nó, sống chết vì đất, vậy mà bây giờ họ chẳng thiết tha gì với ruộng đồng”( 24,187). Và cô cũng hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là “cơ chế quan liêu ưa thành tích” của những người cán bộ đã làm “hư hỏng cả một thế hệ người nông dân xưa nay vốn cần cù một nắng hai sương. Nông thôn đang bị phá vỡ dần gốc rễ nền móng tốt đẹp đã có từ ngàn đời nay.”( 24,193) Như vậy Yến Quyên đã thấy được những bi kịch đang diễn ra tại làng quê của mình. Đó cũng là cái bi kịch chung của làng quê Việt Nam thời cải cách. Yến quyên đã thẳng thắn nói lên quan điểm của mình trong buổi họp ban quản trị mở rộng của hợp tác xã và cả với Trần Tăng hiện đang là cán bộ huyện. Những nhận xét của Yến Quyên đã nói lên được thực trạng nông thôn Việt Nam thời bấy giờ - cái thời mà mọi sinh hoạt ở làng xã đều thông qua tiếng kẻng.  Và đau xót trước những tích cóp của những người nông dân qua bao đời đang bị cơn lũ hợp tác xã cuốn trôi, Yến Quyên cố gắng đấu tranh chống lại dòng thác lũ đó để cố gắng giành giật lại. Nhưng cơn lũ quá lớn, một mình Yến Quyên không thể chống cự nổi. Có thể nói, con người Yến Quyên không có gì đáng chê trách. Cả thời thanh xuân Yên Quyên kiên quyết giữ tấm lòng kiên trung để chờ chồng và làm tròn phận sự của một người con dâu đối với gia đình Hoàng Kỳ bất chấp những sóng gió của thời cuộc. Cái bi kịch mà Yến Quyên phải gánh chịu cũng là cái bi kịch do thời đại đưa đến. Nhưng nhân vật này luôn lấy chữ trung làm lẽ sống: trung trực, trung kiên, trung hậu, trung trinh... nên Yến Quyên đã vượt qua được những thăng trầm của lịch sử. Có thể nói Yến Quyên là nhân vật duy nhất vẫn giữ được nhân cách của mình khi ra khỏi cơn giông của thời đại. Và cô đã được đền bù xứng đáng. Con trai của Yến quyên, Hoàng Kỳ Nam là một nhà báo có danh tiếng, Tướng Hoàng Kỳ Trung luôn coi vợ mình là một niềm tự hào, là niềm kiêu hãnh lớn nhất trong cuộc đời mình. Trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, Yến Quyên được đánh giá là nhân vật được xây dựng một cách toàn bích. Hay nói như nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến, Yến Quyên là “một nhân vật thánh thiện”, một “Bông sen thơm ngát giữa bùn đất”(24,341). Yến Quyên hoàn toàn xứng đáng với lời khen ngợi của chồng - tướng Hoàng Kỳ Trung: “em xứng đáng là người phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.( 24,483)
Trong Dưới chín tầng trời còn một nhân vật cũng được coi là khá thánh thiện nữa, chính là Hoàng Kỳ Nam. Có thể nói đây cũng là một trong những nhân vật hầu như không có gì đáng phải chê trách. Anh cũng là nhân vật duy nhất đi xuyên suốt chiều dài của tác phẩm giống như một sợi chỉ đỏ vô hình lắp ghép các mảnh đời của những số phận bi kịch lại với nhau. Và chính Nam cũng là một nhân vật mang trong mình những vết thương của thời cuộc. Ngay từ nhỏ, Hoàng Kỳ Nam đã phải chứng kiến sự lụi bại của gia đình mình khi cơn lốc cải cách ruộng đất tràn đến. Nhưng lúc đó còn quá nhỏ, Nam không thể trả lời được câu hỏi: “Ông nội không ác với ai, sao mọi người lại ác với ông nội?” (24,55) và tại sao một người như Đào Kinh vốn rất yêu quý gia đình Nam giờ lại trở thành người đi bắt và giết ông nội mình. Tuy nhiên nỗi đau gia đình vẫn luôn ám ảnh trong tâm thức của Hoàng Kỳ Nam. Rồi khi lớn lên cuộc đời của Hoàng Kỳ Nam cũng gặp nhiều trắc trở. Khi đến tuổi mới lớn, Nam đang háo hức tò mò lắng nghe những rung động của cảm xúc trong cơ thể cường tráng của mình thì một chuyện hiểu lầm xảy ra. Trong một lần đi chơi với Vương, Nam đã cứu Tuyết khỏi chết đuối khi đang tắm ở ao đình. Tình ngay lý gian, mọi người vu cho Nam hãm hại đời của Tuyết. Trong khi sự việc chưa được sáng tỏ thì Nam nhận được giấy nhập ngũ nên buộc phải lễ ăn hỏi với Tuyết mặc dù anh không hề yêu. Và Tuyết, người con gái làng Đoài đó đi vào đời Nam như một vết nhơ hằn sâu trong tâm trí của anh. Vào chiến trường Hoàng Kỳ Nam sống và chiến đấu hết mình để giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Trong chiến trường do nỗ lực phấn đấu Hoàng Kỳ Nam, hai lần Nam được đưa vào danh sách cảm tình Đảng nhưng đều không được kết nạp bởi những lỗi lầm không phải mình gây ra. Lần đầu tiên, Hoàng Kỳ Nam buộc phải nhận lỗi thay cho thủ trưởng của mình bởi nếu sự việc mà vỡ lở thì cả đơn vị sẽ mất lòng tin vào chiến đấu. Còn lần thứ hai, khi Hoàng Kỳ Nam đang ở đơn vị trực chiến chiến đấu và là đối tượng kết nạp Đảng thì bố Hoàng Kỳ Trung bị bắt, anh bị chuyển về “trại tăng gia mãi tít trên rừng xanh núi đỏ” nên cũng không được kết nạp vào Đảng. Sau khi ra khỏi quân ngũ, Hoàng Kỳ Nam đi học và trở thành một nhà báo, một nhà văn. Từ cầm súng chuyển sang cầm bút, Hoàng Kỳ Nam vẫn luôn là một con người có trách nhiệm và lương tâm với chính ngòi bút của mình. Chính điều này dẫn đến cái bi kịch trong nghề của Hoàng Kỳ Nam. Khi vào nghề viết, Hoàng Kỳ Nam phải viết theo “sự sắp đặt của ông tổng biên tập”(24,412) và mặc dù không làm trái với nhân cách của một nhà văn nhưng Hoàng Kỳ Nam vẫn cảm thấy bị mất tự do trong sáng tạo nghệ thuật. Cũng chính bởi ý thức tự do tồn tại rất mạnh trong con người Hoàng Kỳ Nam đã thôi thúc làm anh đi đến hai quyết định: bỏ vợ và bỏ nghề làm báo để trở thành người tự do. Đối với Hoàng Kỳ Nam bỏ vợ anh trở thành “người tự do một nửa” và khi bỏ nghề anh thành “người tự do hoàn toàn”. Bởi cuộc sống gia đình của anh không hề có hạnh phúc. Tuyết đi vào đời anh là do một sự hiểu lầm, là một sai lầm không đáng có. Anh không hề yêu Tuyết. Trong khi đó anh tất cả tình cảm của anh lại hướng về một người con gái khác – Thương Huyền, người đến với anh cũng do một sự hiểu lầm của chiến tranh. Tình yêu của anh với Thương Huyền là một tình yêu cũng rất thánh thiện. Nó vượt qua những ham muốn về nhục cảm mà vươn tới sự hòa hợp trong tâm hồn đầy lãng mạn. Trong cuộc sống của con người hôm nay khó mà có thể tìm được những mối tình như thế. Mặt khác, Tuyết lại không giữ trọn lòng trung thủy đối với anh trong những ngày Hoàng Kỳ Nam đi chiến đấu. Điều này đã dẫn đến bi kịch trong đời sống gia đình của anh. Còn bi kịch trong nghề của anh là không được viết theo những gì mà trái tim mình mách bảo. Như vậy, xét cho cùng Hoàng Kỳ Nam cũng là một nhân vật mang nặng những thế thái nhân tình của thời đại. Những trắc trở, những éo le mà nhân vật này vấp phải trong cuộc sống một phần cũng là do những bi kịch của thời đại mang lại, đồng thời nó còn bị chi phối bởi tính cách của nhân vật này: con người có trách nhiệm và một tâm hồn tự do. Có thể nói, Hoàng Kỳ Nam là một nhân vật đã được nhà văn Dương Hướng “thổi vào cái nhiệt hứng của mình khi viết Dưới chín tầng trời” và “Những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghề nghiệp tiểu thuyết được nhà văn gửi gắm vào nhân vật này” (15). Có lẽ vì thế mà người đọc thấy thấp thoáng một phần cuộc đời, một phần tính cách của nhà văn Dương Hướng trong nhân vật Hoàng Kỳ Nam.
Trong gia tộc Hoàng Kỳ, còn một nhân vật không thể không nhắc tới đó là Hoàng Kỳ Trung. Hoàng Kỳ Trung, một nhân vật không được coi là thánh thiện như Yến Quyên và Hoàng Kỳ Nam bởi trong nhân vật này còn tồn tại những méo mó và dị dạng trong tâm hồn. Những méo mó, dị dạng đó chính là sản phẩm của thời cuộc in dấu lên cuộc đời ông. Đây cũng là một nhân vật mang những bi kịch của thời đại. Là người đi kháng chiến, rồi sau đó làm cán bộ cải cách, có nhiều cống hiến cho cách mạng nhưng ông không thể nào ngờ rằng gia đình mình lại là nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất. Khi làm trở về, gia đình tan nát bởi những sai lầm của công cuộc cải cách nhưng Hoàng Kỳ Trung cũng đành nuốt hận vào lòng và tiếp tục đi kháng chiến. Đối với Hoàng Kỳ Trung đi kháng chiến là để xóa đi cái vết đen trong lý lịch gia đình, để cứu lấy gia tộc đồng thời để đứng vững được trước thời đại đầy biến động. Có thể nói đây là một suy nghĩ rất thức thời của nhân vật này. Hoàng Kỳ Trung thấy rõ những rối ren, phức tạp trong thời đại mà ông đang sống. Bên cạnh những thành quả lớn lao mà cách mạng đem lại thì những mặt trái của nó cũng vô cùng khủng khiếp. Nếu không biết cách ứng xử thì sẽ bị lịch sử nghiền nát ngay lập tức. Và cách ứng xử của Hoàng Kỳ Trung là phải chịu đựng. Chính điều này đã được ông khẳng định khi nói chuyện với con trai Hoàng Kỳ Nam: “Con ạ, làm được người tử tế còn phải nhận biết và chịu đựng được cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống”(24,346). Dù đi kháng chiến biền biệt nhưng ông cũng thấu hiểu được những mặt trái đang diễn ra trong phong trào hợp tác hóa: nó “như một cơn lũ... cuốn phăng đi mọi thứ của nhà nông đã tích góp từ bào đời”(24,346,) nhưng ông cũng thấy nếu lao ra chống đỡ cũng sẽ bị nó đánh cho “nhừ đòn”. Và cách duy nhất là “phải chịu đựng”. Rồi cuối cùng ông đưa ra triết lý: “Thời thế thế thời phải thế”(24,345). Chân lý này đã trở thành minh triết đối với ông. Cũng nhờ minh triết này, ông Trung đã “sống sót” qua những tai biến của lịch sử. Không những thế ông còn trở thành người anh hùng của thời đại. Một vị tướng không khuất phục trước sự tra tấn giã man của kẻ thù và giành được rất nhiều chiến công trên chiến trường. Ở trong con người ông Trung tồn tại những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản kiên cường: ý chí sắt đá, giữ vững lập trường quan điểm đến cùng,có tinh thần bất khuất... Song bên cạnh đó, nhân vật này cũng có những khuyết điểm, méo mó dị dạng trong tính cách. Có lẽ cái nghiệp nhà binh đã ảnh hưởng rất lớn tới phong cách sống của ông đến nỗi:        Ông nói câu nào cũng dùng mệnh lệnh. Có lẽ cả khi ngủ với mẹ, bố cũng dùng mệnh lệnh”(24,341) hay không cho phép bất kỳ ai “nói ý kiến riêng của mình”. Ông là người có lập trường giai cấp đến cùng nhưng cái lập trường giai cấp ấy quá cứng nhắc đã dẫn đến những lẫm lẫn trong cuộc sống. Với ông Trung trong xã hội con người chỉ có hai phía: ta và địch. Nếu họ không ở phía ta thì chắc chắn họ là địch chứ không thể tồn tại một lực lượng trung gian giữa hai bên. Chính cái nhìn xã hội theo hai cực đối kháng đã đưa ông đi vào vết xe đổ của lịch sử lúc nào ông không biết. Ông vội vàng quy kết cho gia đình thương gia Đức Cường là “kẻ thù không đội trời chung”. Vô hình chung, ông cũng giống như Trần Tăng trước kia khi một mực quy cho bố mẹ của ông là địa chủ. Nếu có khác cũng chỉ là khác ở thời điểm và cấp độ mà thôi. Như vậy, với ngòi bút già dặn nhà văn Dương Hướng đã không ngần ngại nêu lên những nét dị thường, kỳ quặc bên cạnh những nét ưu tú của nhân vật Hoàng Kỳ Trung. Những dị dạng trong tính cách chính là sản phẩm của thời đại in dấu trong con người Hoàng Kỳ Trung. Một thời đại vừa bi vừa hùng. Ở nhân vật này dù gặp phải không ít những bi kịch trong cuộc đời, nhưng với những kinh nghiệm từng trải sau bao năm vật lộn trên chiến trường với triết lý sống “Thời thế thế thời phải thế” cùng cách ứng xử của mình, tướng Hoàng Kỳ Trung đã đứng vững sau những tai biến của lịch sử và trở thành nhân vật anh hùng của thời đại. Và mặc dù có những dị dạng, méo mó về tâm hồn nhưng ở trong con người Hoàng Kỳ Trung không hề có tính chất “điếm”, hay “lưu manh” sau khi ra khỏi “tai nạn” cuộc đời như một số nhân vật khác trong Dưới chín tầng trời. Xét cho cùng, Hoàng Kỳ trung là một nhân vật anh hùng.
Bên cạnh Hoàng Kỳ Trung, Đào Vương cũng được coi là một nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Cùng trang lứa với Hoàng Kỳ Nam, nhưng khác với Nam – một con người thiên sống về nội tâm, Vương là một người sống liều lĩnh, táo bạo, thông minh và có óc phán đoán. Cũng nhờ tính cách đó mà Đào Vương có nhiều sáng kiến hay trong chiến đấu. Những sáng kiến này đã giúp đơn vị của Vương không bị tổn thất về người mà còn là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta ồ ạt kéo vào giải phóng thành phố trong dịp tết. Bởi thế Vương được kết nạp vào Đảng và được đề bạt chức tiểu đội trưởng. Vương chính là lớp người anh hùng đi sau kế tiếp lớp người đi trước là Hoàng Kỳ Trung. Khi chiến tranh kết thúc, Vương trở thành thương binh. Trong chiến đấu Vương là một người anh hùng thì khi trở về vương chỉ là một kẻ tàn phế. Là một người có: “bản tính mạnh mẽ, làm gì cũng muốn nổi tiếng, tính khí lại ngang tàng, sức sống hừng hực, dục vọng tràn trề”(24,410) giờ phải “ru rú giam mình trên chiếc xe lăn”(24,489), Vương thấy thật không thể chịu nổi. Một nỗi chua xót mặc cảm trào lên trong lòng người anh hùng trẻ. Không những thế, khi trở về quê hương, tận mắt chứng kiến những bất công, những chuyện thị phi diễn ra ở làng mình khiến Vương cảm thấy đau đớn. Những gì anh và đồng đội của mình phải đổi bằng xương máu và mạng sống để bảo vệ giờ đây đang bị phá hoại bởi những kẻ ở lại. Cuộc đời thật bất công. Là một người không từng trải và chưa có được cái bản lĩnh như Hoàng Kỳ Trung, Vương bị cuộc đời “quật” ngã dẫn đến bi kịch. Bi kịch của người anh hùng thời hậu chiến. Đến cuối tác phẩm, Vương cũng được bù đắp phần nào khi nhận lại con gái Ngọc Lan và tác giả hé lộ, Tuyết – cô chủ tịch xã Chiến Thắng muốn xây dựng lại hạnh phúc với anh.
Trong những người dân làng Đoài, có một nhân vật mà ta không thể không nhắc đến, đó là Đào Kinh. Đây cũng là một trong những nhân vật được nhà văn Dương Hướng dày công xây dựng. Một nhân vật vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân của lịch sử. Ở Đào Kinh có sự hòa trộn của cái bi, cái hùng, cái hài, và cả những lầm lỗi của lịch sử. Là một người tứ cố vô thân, Đào Kinh xin làm người làm mướn cho nhà Hoàng Kỳ; rồi sau đó khi cuộc cải cách ruộng đất đến, bỗng dưng thời thế thay đổi, từ một kẻ cùng đinh mạt hạng của làng Đoài, Đào Kinh bỗng trở thành một cán bộ cốt cán của cuộc cải cách ruộng đất rồi làm đến cả cán bộ tuyên truyền trong phong trào Hợp tác xã. Nhưng cơn bão Hợp tác xã đã quật cho Đào Kinh một đòn quá đau buộc Đào Kinh phải bỏ quê ra đi. Trong cuộc đời lênh đênh với nhiều bến đỗ, hết lần này đến lần khác, cứ ngỡ mình đổi đời nhưng rồi lại bị trắng tay. Và cả cuộc đời Đào Kinh cố thoát ra khỏi cái định mệnh của lịch sử, của bàn tay quyền lực nhưng không thoát nổi mà đại diện là Trần Tăng. Sau khi bỏ quê ra đi, Đào Kinh đã làm mọi việc để thay đổi cuộc đời của mình. Trải qua những tháng ngày khó khăn: bị vào tù vì tội tổ chức vượt biên, phải làm bảo kê cho ổ điếm của mẹ con bà Cháo ở biên giới... với ý chí vươn lên, Đào Kinh đã ngày càng làm ăn phát đạt và trở thành tỉ phú. Mặc dù là một anh nông dân “chân đất mắt toét” trình độ học vấn thuộc loại i – tờ, không biết gì về kinh tế thị trường, nhưng nhờ vào tiền của mình, Đào Kinh có một đội ngũ quân sư giỏi giang, và những đệ tử trung thành giúp ông ta trong việc kinh doanh. Khi tổng kết lại kinh nghiệm làm ăn của mình Đào Kinh đã nói “Làm giàu thời nay trước tiên phải có quyền lực... Bí quyết thành công trong làm ăn nói chung trên đất nước này thuộc về những ai biết khai thác triệt để quyền lực...”(24,76). Như vậy, quyền lực ngự trị mọi lĩnh vực cả kinh tế, chính trị và xã hội. Nhờ vào quyền lực và tiền bạc, Đào Kinh đã thực hiện thành công những vụ làm ăn phi pháp và trở thành biểu tượng của thời đại. Không những thế, Đào Kinh còn là nhân vật hiện diện cho nỗi đau sâu kín, lâu dài về những u mê,  sự mông muội, sự ấu trĩ của lịch sử. Chính vì sự mông muội của mình mà Đào Kinh đã cầm súng bắn vào Hoàng Kỳ Bắc, người đã cưu mang và đùm bọc mình trong những tháng ngày khốn khó. Rồi khi bắt quả tang Trần Tăng ngủ với vợ mình nhưng không làm gì được, cuối cùng vẫn phải mang ơn ông ta. Sự ấu trĩ đó còn thể hiện trong những việc làm của ông ta trong phong trào Hợp tác xã với những trò làm ăn quan liêu, sai trái, dối trá để lấy thành tích. Như vậy, Đào Kinh cũng là một nhân vật có tính cách phức tạp. Trong ông ta vừa có tính chất lưu manh, vừa có cả cái thiên lương trong tâm hồn. Vì thế nhân vật này không gây nhiều ác cảm mà vẫn lưu lại những thiện cảm trong lòng của người đọc.
Măng là kết quả của cuộc tình giữa Trần Tăng và nàng Cam của Đào Kinh. Nhờ vào thế lực của bố đẻ, Măng từ một cô gái quê nhút nhát, hiền lành nhanh chóng trở thành cửa hàng trưởng cửa hàng ăn số một. Những năm sống ở trên tỉnh đã dạy cho Măng biết lợi dụng cái quyền lực của người bố đẻ và cái vốn trời cho của mình để tiến thân. Măng phất lên như diều gặp gió và trở thành một “doanh nhân thành đạt”,“một người đàn bà giàu nhất nước Nam”(24). Với dòng máu hừng hực ham muốn và dục vọng của Trần Tăng chảy trong người, Măng biết dùng quyền lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Măng được người ta gọi là “Con điếm chính trị” và nổi tiếng là người có thể: “thiết kế một cho một thằng ngu dốt nhảy phóc một phát vào ghế này ghế nọ, và cũng sẵn sàng hạ bệ tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù hoặc về vườn...”(24,393). Trong mắt mọi người Măng là một người đàn bà có quyền lực và bản lĩnh. Nếu bố Trần Tăng của cô có về nghỉ hưu thì chỗ đứng của cô vẫn vững chắc như bàn thạch bởi cô đã sớm tạo dựng cho mình một thế lực mới che trở cho mình. Như vậy, ta tưởng chừng nhà văn sẽ xây dựng nhân vật này sa đọa đến cùng trong lực hút đầy ma lực của đồng tiền và quyền lực. Nhưng không, với cái nhìn đầy tính nhân ái với con người, đặc biệt với người phụ nữ, tác giả phát hiện ra trong sâu thẳm tâm hồn của người đàn bà này những sống một cuộc đời bình dị trong những tình cảm chân thật giữa con người với con người  Em thực sự buồn chán cứ phải sống mãi trong cảnh giàu sang nhung lụa mà cái tình bạc phếch như vôi...” (24,19). Điều này đã tạo nên tính đa thanh trong nhân vật của Dương Hướng.
Còn Tuyết là một người đàn bà ham danh vọng và lẳng lơ. Để đạt được danh vọng, Tuyết sẵn sàng đánh đổi cái quý giá nhất của người con gái. Mặc dù là người phụ nữ đã có chồng, nhưng trước cái ánh sáng chói lòa quyền lực của Trần Tăng, Tuyết đã bị “thiêu rụi” và ngã vào lòng ông ta một cách tự nguyện. Và Tuyết chính là sản phẩm của Trần Tăng tạo ra. Tưởng rằng Tuyết sẽ là cái bóng của Trần Tăng suốt đời, nhưng thật bất ngờ, cô đã rẽ sang một con đường khác. Tuyết là một người đàn bà đầy bản lĩnh. Trên đoạn đường đi chung với “người tình to lớn” của mình, Tuyết nhận ra những sai lầm của ông ta và rẽ sang một hướng đi khác. Tuyết đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm của Trần Tăng “Ông là một thủ lĩnh dẫn dắt đoàn quân bước những bước đi sai lầm không dễ gì chối bỏ được. Hậu quả đã rành rành, thực tế đã chứng minh....”(24,469). Đồng thời Tuyết cũng dám chịu trách nhiệm đối với những việc làm sai trái của mình “Từ ngày ly hôn với Hoàng Kỳ Nam, em nhận ra mình là một người đàn bà hư hỏng nên phải trả giá.”(24,469). Và cô mong “Cuối đời, em lại muốn làm điều gì đó thực sự có ích giúp cho họ (người dân làng Đoài) có được cuộc sống tốt đẹp, bù lại những gì lâu nay ta đã làm khổ họ”(24,469). Tuyết là thế hệ sau tiếp nối Trần Tăng, nhưng lại có cái nhìn cấp tiến hơn ông ta. Tuyết sẽ là người sửa lại những sai lầm mà Trần Tăng đã gây ra cho nhân dân làng Đoài, sẽ là người sửa lại những nỗi lầm, những lầm lạc mà con người đã bước qua. Có lẽ cái hay tạo nên giá trị cho tác phẩm Dưới chín tầng trời phải chăng là ở chính chỗ này?
Bên cạnh những nhân vật tiêu biểu nổi hình, nổi khối ở làng Đoài như gia đình Hoàng Kỳ, gia đình Đào Kinh, làng Đoài còn có những nhân vật khác như mẹ con bà Cháo, cô Lùn, anh Câm, Cảo chăn vịt, lão Khi... cũng hiện lên rất sinh động, mang đậm bản chất của những người dân quê. Mỗi người mang một nét riêng với những cảnh ngộ khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú về nhân vật cho tác phẩm. Đồng thời, làm cho tiểu thuyết Dưới chín tầng trời có sức phản ánh sâu tới tận cùng ngõ ngách của làng quê. Những người dân làng Đoài, họ đã trải qua biết bao thăng trầm biến động xã hội, và dù ít hay nhiều họ cũng mang trong mình những nỗi đau của thời đại. Họ chính là những nhân chứng cho một thời kỳ lịch sử đã đi qua trong cuộc sống hôm nay.
·        Những nhân vật không phải người làng Đoài.
Dưới chín tầng trời là một bước tiến mới so với Bến không chồng trong bề rộng phản ánh. Nếu Bến không chồng chỉ là cuộc sống của những người dân trong một đơn vị làng – làng Đông, thì trong Dưới chín tầng trời đó là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống con người trên khắp mọi miền đất nước, trải dài từ Bắc vào Nam. Đó là gia đình thương gia Đức Cường ở Đà Nẵng, cô Mai Tàu chuyên buôn bán ở vùng biên giới, cán bộ Trần Tăng, Thu Cúc... Mỗi người có một số phận, một địa vị khác nhau nhưng họ có một điểm chung là đều có mối quan hệ với những cư dân ở làng Đoài. Thậm chí có nhân vật có những ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của những người dân làng Đoài là Trần Tăng và Thu Cúc. Mặc dù, nhân vật trung tâm của tiểu thuyết vẫn là những người dân làng Đoài, nhưng những nhân vật này hiện lên rất sinh động và đầy cá tính. Điều này thể hiện tính phong phú trong hệ thống nhân vật của Dưới chín tầng trời.
Trước tiên ta bắt đầu với nhân vật Trần Tăng. Đây được coi là một nhân vật đầy tâm huyết của nhà văn Dương Hướng. Trong Dưới chín tầng trời, Trần Tăng như là một nhân vật đại diện cho cái góc khuất của một nhân vật lớn mà nhà văn muốn hướng tới, đó là nhân vật lịch sử. Ở Trần Tăng, người đọc dễ dàng nhận ra những  mặt trái, những lầm lạc của một thời. Trần Tăng là một con người đầy quyền lực. Cái quyền lực này được thể hiện rõ khi Trần Tăng về làng Đoài thực hiện công tác cải cách ruộng đất: “Sếp đội Trần Tăng như có phép thần thông khiến cả làng đều sợ. Từ lũ trẻ con đến cụ già lụ khụ nhìn thấy thằng Trần Tăng là khúm núm dạ vâng, không dám cả nói to.”.  Đến cả loài vật cũng phải sợ cái uy quyền của Trần Tăng: “ Loài chó hung dữ thế, hễ nhìn thấy Trần Tăng là cụp đuôi lủi mất dạng.” (24,50). Và con đường để bước tới quyền lực của ông ta gắn liền với những biến động của đất nước: cải cách ruộng đất, phong trào Hợp tác xã ở nông thôn, cuộc chiến tranh biên giới, và cả khi đất nước bước thời kỳ đổi mới...  đã kéo theo biết bao nhiêu số phận, bao nhiêu con người không chỉ riêng ở làng Đoài. Những nơi mà ông ta đi qua trên bước đường quan nộ của mình đều bị: “phá tan nền móng gốc rễ làng quê”, đời sống của người dân trở nên nghèo khổ đến nỗi có người phải bỏ làng mà đi như mấy mẹ con bà Cháo, như Đào Kinh. Rồi khi bỏ làng ra đi, những người này vẫn không thoát khỏi bàn tay đầy quyền lực của Trần Tăng. Vì ông ta mà có biết bao nhiêu gia đình phải tan nát, vợ phải xa chồng, mẹ phải xa con,... Đào Kinh thì mấy lần tưởng đổi đời nhờ làm ăn buôn bán nhưng rồi lại trắng tay, mấy mẹ con bà Cháo đang làm ăn ổn định ở vùng giáp biên giới bỗng trở nên bơ vơ mất trắng những gì mà bao nhiêu năm làm lụng chắt chiu đến nỗi phải dùng đến cái vốn tự có để nuôi thân. Không chỉ có thế, Trần Tăng còn làm mưa làm gió trên lĩnh vực kinh tế. Nhờ ông ta hậu thuẫn mà một người như Đào Kinh và Măng đã trở thành những mạnh thường quân kinh tế. Không những thế Trần Tăng còn là một con người sống sa đọa, và đạo đức “nhếch nhác” (Hoàng Ngọc Hiến) và hứng “đa tình”. Thói mê gái đã ăn sâu vào máu của Trần Tăng và trở thành một cái gen trội trong con người ông ta. Mặc dù đã có vợ, nhưng chỉ tính ở làng Đoài, ông ta đã liên quan tới ba người đàn bà: Yến Quyên, Cam, và Tuyết. Còn trong cuộc đời danh vọng của mình thì không thể biết được đã có bao nhiêu cô gái đã ngã vào lòng của ông ta. Trần Tăng như một “con quỷ dâm dục”, một vết đen trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Nhưng trong Dưới chín tầng trời, nhà văn Dương Hướng nhìn nhận Trần Tăng ở một khía cạnh khác: “cả ba người đàn bà làng Đoài đã tạo nên tính cách Trần Tăng thâm trầm và dữ dội, đắm đuối và si mê”(24,228). Như vậy, Dương Hướng không làm cho nhân vật này trở thành tên ác quỷ mà trong những mối quan hệ bất chính đó ta vẫn thấy thấp thoáng ở con người này một chữ tình. Ví dụ như với mối quan hệ với Tuyết, ban đầu cũng là những ham muốn về xác thịt, nhưng sau đó, Trần Tăng thấy quý mếnTuyết mong muốn “Bao kinh nghiệm thu lượm được trong những năm tháng qua, Trần Tăng muốn truyền lại cho Tuyết”(24,228) để cô trở thành một “người đàn bà mạnh mẽ, có trình độ học vấn và có cả quyền lực...”(24,226). Và trong thực tế, Trần Tăng đã giúp cô rất nhiều trên con đường công danh. Không những thế, làng Đoài – nơi mà ông đã gây ra bao nhiêu oan trái cũng là nơi ông “gửi gắm tâm lực hơn cả cho mảnh đất và con người” (24,226) nơi đây. Điều này có thể thấy sự phức tạp trong con người của nhân vật Trần Tăng. Ông ta được coi là một kẻ cơ hội, kẻ tha hóa, sa đọa và đầu cơ về chính trị, nhưng bên cạnh đó ta còn thấy tính bi kịch trong con người ông ta. Bi kịch của sự cô đơn, lạc lõng. Tuy là một người có quyền lực tột đỉnh, đi đến đâu cũng được trọng vọng nhưng ông ta lại cảm thấy rất cô đơn trên đỉnh uy quyền. Là cán bộ cấp cao khi đi ra ngoài quân quyền lộng ai cũng phải khiếp sợ nhưng khi về nhà lại bị bố đẻ và người vợ coi thường. Không những nơi ông ta đi qua chỉ để lại trong lòng dân nỗi hận thù. Ông ta biết những việc làm của mình là sai trái nhưng ông ta vẫn phải làm vì nếu ông ta không làm thì người khác làm còn để lại hậu quả nghiêm trọng hơn. Rồi khi cuối đời, Trần Tăng càng thấm thía với cái bi kịch của mình hơn. Khi con người ta gần đất xa trời, con người ta thường quay đầu về với tổ tiên, làng xóm, nhưng với Trần Tăng ông không dám quay đầu trở lại vì sự “ghẻ lạnh” của họ giành cho ông, cho những hậu quả mà ông đã để lại trên mảnh đất quê hương của mình. Ngay chính làng Đoài, nơi mà ông chỉ “đi qua”, người dân ở dường như ai cũng coi ông là một tên quan chuyên hành hạ dân lành. Và cuối cuộc đời của mình, khi ông đã từ giã cõi đời sẽ không có ai thắp hương cho ông. Như vậy có thể nói, cái bi kịch ở nhân vật Trần Tăng sâu sắc hơn của những nhân vật khác vì ông ta nhận thức được cái bi kịch của mình. Qua những phút sám hối của nhân vật này ở cuối tác phẩm, ta thấy rõ sự vận động phức tạp trong con người Trần Tăng. Trong con người Trần Tăng vừa có ác quỷ, vừa có cả thánh thần. Và phép biện chứng tâm hồn được nhà văn sử dụng triệt để khi xây dựng nên nhân vật này. Như vậy, với độ chín của cây bút luôn hướng mình theo cái Chân – thiện – Mỹ, nhà văn Dương Hướng đã cố gắng tìm ra cái hạt ngọc của nhân tính trong cái xấu xa, cái tội lỗi. Trong con người Trần Tăng – một nhân vật đại diện những góc khuất lớn của lịch sử với những sự tha hóa trong quyền lực,với những lỗi lầm to lớn, những trò ma mãnh, những mưu mô toan tính quyền lực đã gây ra bao khổ đau cho con người, nhưng trong con người tội nhân của ông ta vẫn còn le lói ánh sáng của một chút thiên lương. Qua nhân vật này, cái nhìn của nhà văn Dương Hướng đặt ra một cách rõ nét trong Dưới chín tầng trời – một cách nhìn truyền thống của người phương Đông: “thấy Dương trong Âm, cái Sồng trong cái Chết, cái Dũng trong cái Hèn, Phúc trong Họa, Thiện trong Ác, Tích cực trong Tiêu cực...”(24,513). Một cái nhìn mang tính nhân văn cao cả.
Bên cạnh Trần Tăng, thì nhân vật Thu Cúc cũng là một nhân vật có quyền lực rất lớn trong Dưới chín tầng trời. Nhân vật này không có ảnh hưởng trực tiếp và có tầm bao quát đối với người dân làng Đoài như Trần Tăng mà chỉ dừng lại ở một vài con người cụ thể - Hoàng Kỳ Nam. Đặc biệt, Thu Cúc lại có ảnh hưởng rất lớn đối với gia đình thương gia Đức Cường. Có thể nói, nếu Trần Tăng là người đã gây ra sự đổ vỡ của gia đình Hoàng Kỳ trong cuộc cải cách ruộng đất thì Thu Cúc là người đã phá tan hạnh phúc của gia đình thương gia Đức Cường – một thương gia giàu lòng yêu nước và có công với cách mạng, khi đất nước vừa được giải phóng. Là một người có gốc rễ thành phần cơ bản với một lý lịch đẹp, và có nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến, nên sau khi đất nước được giải phóng, Thu Cúc được đưa vào vị trí phó chủ tịch thành phố. Quả là một con người đáng nể trọng, nhưng nhà văn Dương Hướng không quan tâm đến cái bề ngoài đó mà nhà văn cố đi sâu vào tìm hiểu, nắm bắt con người bên trong của nhân vật này. Và con người đó được nhà văn thể hiện ở trong sắc diện cũng như trong hành động của nhân vật. Đối với Thu Cúc, sau khi đất nước giải phóng với cương vị là phó chủ tịch thành phố cô đã thực hiện một chính sách cào bằng. Hành động của cô đối với gia đình thương gia Đức Cường cũng gần giống với hành động của Trần Tăng đối với gia đình Hoàng Kỳ, chỉ có điều khác nhau về bản chất và mục đích. Cô không coi gia đình Thương gia Đức Cường là kẻ thù không đội trời chung như tướng Hoàng Kỳ Trung nhưng trong con mắt của Thu Cúc, gia đình này cũng không khác nào một cái mầm bệnh có hại cần phải nhổ tận gốc. Hay có lẽ những năm tháng sống quá gian khổ trong kháng chiến đã làm cho trái tim cô trở nên băng giá mà sau này cô quên mất con người sống với nhau cần nhất là hai chữ tình người. Để rồi khi trở về với cuộc sống trên một cương vị đầy quyền uy, cô coi tất cả những gia đình sống trong sự giàu sang đều là những cây nấm có độc cần phải nhổ mà không cần phải xem xét, phân biệt họ là người như thế nào. Với con người này, lúc nào cũng là lập trường giai cấp, là lý lẽ - cái lý lẽ cạn tàu ráo máng không một chút tình người. Cô đối với nhà thương gia Đức Cường lúc nào cũng như là một người bề trên ban phát sự sống cho những con chiên ngoan đạo của mình, lúc nào cô cũng nói là “nhân danh Đảng và chính quyền...”, nhưng thực tế có phải như vậy không? Hay chính cô muốn phá tan cái gia đình này để mưu cầu danh lợi riêng cho mình? Và khi đọc Dưới chín tầng trời, người đọc không khó nhận ra cái người đẩy gia đình Đức Cường vào bước đường cùng: ông Đức Cường tự tử, bà Đức Cường chết theo ông, Đức Thịnh trong lúc phẫn uất đã cầm dao đâm người và tự tử trong nhà giam, còn Thương Huyền thì bị hóa điên bởi quá tuyệt vọng. Nhân vật thế lực này cũng là nguyên nhân góp thêm vào cái bi kịch trong cuộc đời của nhân vật Hoàng Kỳ Nam. Thu Cúc và Hoàng Kỳ Nam dường như đã trở thành kẻ đối đầu với nhau trước một vấn đề: số phận của Thương Huyền. Một người luôn mong  cho Thương Huyền có một cuộc sống tốt đẹp, còn một người lại muốn đẩy cô đi càng xa càng tốt. Trong những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, Thu Cúc sẽ vươn lên thành một anh hùng với phẩm chất kiên định, giữ vững lập trưởng tư tưởng, lập trường giai cấp, nhưng trong Dưới chín tầng trời ta thật khó để có thể nói nhân vật này là nhân vật tích cực hay là nhân vật tiêu cực. Điều này tạo nên tính phức tạp của nhân vật trong Dưới chín tầng trời.
Và cuối cùng ta không thể không nhắc tới gia đình thương gia Đức Cường, một gia đình cũng chứa chất biết bao nỗi bi kịch của thời đại, của lịch sử. Nếu trong phần đầu tác phẩm, ta chứng kiến bi kịch của gia đình Hoàng Kỳ là bi kịch của một thời kỳ lầm lạc trong những tháng ngày lần tìm con đường để đến với chủ nghĩa xã hội khi cuộc Cải cách ruộng đất diễn ra ở miền Bắc, thì bi kịch của gia đình thương gia Đức Cường lại là bi kịch của chiến tranh và hòa bình. Chiến tranh luôn là một nguyên nhân gây ra những tổn thất, mất mát cho con người không chỉ về của cải mà còn cả về máu và nước mắt. Và nỗi đau đó không chỉ tồn tại trong những tháng ngày chiến tranh đang tung hoành mà hậu quả của nó còn kéo theo một vệt dài cả vào những ngày hòa bình. Trong kháng chiến, gia đình thương gia đã đào hầm nuôi giấu cán bộ cách mạng, ủng hộ cách mạng của cải vật chất trong những ngày cuộc kháng chiến của ta còn gặp nhiều khó khăn, rồi khi hòa bình, ông hiến hai nhà máy đang làm ăn phát đạt do ông quản lý cho nhà nước, hiến cả ngôi nhà cho người cán bộ cách mạng làm trụ sở làm việc trong những ngày đất nước còn gặp nhiều khó khăn khi mới bước ra từ lửa đạn, để rồi ông nhận lại được gì? Hay đó chỉ là nỗi tuyệt vọng và những bi kịch cứ nối tiếp ập đến đối với gia đình ông mà nguyên nhân lại bắt nguồn từ những người được coi là cốt cán của cách mạng. Là một thương gia giàu có nhờ vào công việc kinh doanh buốn nhưng gia đình ông thuộc vào giai cấp tư sản dân tộc, tuy không danh chính ngôn thuận đi theo cách mạng nhưng những chiến thắng mà ta giành được không thể không kể đến sự đóng góp của những gia đình như gia đình thương gia Đức Cường. Tuy có con trai làm lình cho ngụy quân, nhưng Đức Chính chưa bao giờ phải cầm súng ra trận đó chỉ là do hoàn cảnh xô đẩy; đặc biệt người con gái Thương Huyền phải ngủ với cố vấn Bell để hoàn thành nhiệm vụ mà cách mạng giao cho. Khi hoàn thành xong nhiệm vụ, nhờ đứa con trong bụng mà Thương Huyền thoát chết nhưng nàng phải bỏ dở công việc vì sự day dứt, giằng xé trong tâm hồn khi là kẻ giết cha của đứa con mình. Thế nhưng khi hòa bình lập lại Thương Huyền không nhận được sự cảm thông của mọi người mà đáp lại đó là ánh mắt soi mói của những người cán bộ “kiên định lập trường” như Thu Cúc, mặc dù chính họ đã đẩy cô làm vật hy sinh “dưới hai làn đạn ở cả hai phía”. Nghịch cảnh đặt ra khiến người đọc phải lặng đi để mà suy nghĩ. Một gia đình thương gia Đức Cường giàu có, đức độ, kiêu hãnh bao nhiêu, có nhiều đóng góp cho cách mạng lại chính là nạn nhân của cuộc cải tạo tư sản. Điều làm ông Đức Cường đau xót là hai nhà máy mà ông quản lý đang làm ăn rất phát đạt khi vào tay chính quyền lại bị thua lỗ nặng và có nguy cơ phá sản. Dù giờ đây nó không phải là nhà máy của ông nhưng cả đời ông đã lăn lộn với nó, bỏ nhiều tâm huyết với nó nên giờ đây khi nghe tin dữ về hai nhà máy này lòng ông cảm thấy trào lên một nỗi chua xót như “mất đi một cái gì quý giá”. Rồi hai đứa con của ông lại chịu một cuộc đời lỡ dở đã làm ông quá đau lòng. Chứng kiến những nghịch cảnh ngày ngày diễn ra trong khu biệt thự của mình, thương gia Đức Cường cảm thấy mình là “kẻ thất bại thảm hại nhất trên đời”, vì ông mà “vợ con ông phải chịu khổ” ông không muốn tiếp tục sống nữa. Ông tuyệt vọng...và cuối cùng ông tìm cho mình một con đường giải thoát với lọ thuốc ngủ xinh xinh. Thật đau lòng! Gia đình thương gia Đức Cường chính là nạn nhân của cuộc cải tạo tư sản diễn ra khi đất nước vừa độc lập. Cuộc cải tạo tư sản với những sai lầm tả khuynh ấu trĩ, với cái nhìn lập trường giai cấp cực đoan đã đưa đến những bi kịch đẫm máu và nước mắt. Nhà văn Dương Hướng đã cho người đọc tiếp cận lịch sử một cách chân thật hơn. Ngòi bút của ông chỉ tuân thủ theo một tôn chỉ: đó là sự thật. Tuy nhiên, dù sự thật của lịch sử có những lầm lỗi, những sai trái nhưng con người vẫ có quyền tin và hi vọng một kết cục khác cho cuộc sống về sau. Điều này cũng là mang tính logic khi Thương Huyền được đền bù lại những mất mát mà mình đã phải chịu đựng những sai lầm của lịch sử khi cô tìm được bến bờ hạnh phúc của mình: Hoàng Kỳ Nam.
Ngoài những nhân vật nổi bật như Trần Tăng, Thu Cúc, gia đình thương gia Đức Cường, trong Dưới chín tầng trời còn có những nhân vật như cô Mai Tầu, Sáng Hoa Kiều, phi công Hall,... cũng nổi lên như những hình khối rất rõ nét. Những nhân vật này ít nhiều cũng chịu những sóng gió, những va đập với những biến cố của lịch sử. Và sau khi ra khỏi những chấn động đó, những con người này dù có những đổi thay trong tính cách nhưng ở họ vẫn ánh lên những tia sáng của tình người.
Dưới chín tầng trời là cái tâm của người cầm bút đối với làng quê, đối với dân tộc. Tuy nhiên, không đi theo nối mòn cũ là con đường ca ngợi những chiến công lịch sử của dân tộc mà nhà văn lại hướng ngòi bút của mình xoáy sâu vào những mảng đen sẫm trong mỗi chặng đường lịch sử qua những nhân vật của mình để chứng minh cho một thời quá khứ hào hùng nhưng cũng đầy bi ai. Viết về cái xấu, cái ác, về những lỗi lầm, những sai trái mà con người đã từng bước qua cũng là một cách để khẳng định con người. Lấy phủ định để khẳng định, lấy cái Ác để chứng minh cho cái Thiện. Chính vì thế mà mặc dù nhân vật trong Dưới chín tầng trời đều thấm đẫm những bi kịch của thời đại nhưng người đọc vẫn thấy ánh lên một niềm tin vào cuộc sống, vào con người.
Nhân vật trong Dưới chín tầng trời rất đa dạng với đầy đủ những tầng lớp khác nhau. Không những thế, tính cách của nhân vật cũng rất phức tạp. Đa số nhân vật trong Dưới chín tầng trời rất khó có thể khẳng định họ là người tốt hay xấu, trừ nhân vật Yến Quyên, ông bà Hoàng Kỳ Bắc. Trong mỗi nhân vật đều có sự đan xen giữa tốt – xấu, thiện – ác, dũng – hèn... chỉ khác nhau ở mức độ biểu hiện giữa chúng mà thôi. Người đọc rất khó phân định đâu là nhân vật tích cực, đâu là nhân vật tiêu cực. Cái ranh giới giữa chúng rất mong manh và mơ hồ. Nó làm cho nhân vật của Dương Hướng trở nên gần gũi với con người hơn, thực hơn. Chính điều này đã tạo nên chất dính cho nhân vật trong Dưới chín tầng trời.
Trong 500 trang của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời với khoảng 100 nhân vật cứ đan xen nhau đi đi về về, hiện thực của cuộc sống được phơi bày một cách chi tiết, tỉ mỉ qua những ngã rẽ cuộc đời của từng số phận qua những cơn chấn động của thời đại, để rồi khi quay đầu nhìn lại người ta không khỏi bàng hoàng. Một thời kỳ lịch sử đầy hào quang với những chiến công chấn động địa cầu nhưng cũng không thiếu những lầm lỗi trong sự lần tìm đường đi cho mình. Và những lầm lỗi này đã gây ra những hậu quả khôn lường đôi khi phải trá bằng máu và nước mắt. Do đó nhìn một cách tổng quát thì hầu hết những nhân vật này đều là những số phận thấm đẫm những nỗi bi kịch: bi kịch của thời đại, bi kịch của những lầm lạc lịch sử như gia tộc Hoàng Kỳ, gia đình thương gia Đức Cường, Đào Kinh, Trần Tăng, Tuyết,... Mỗi nhân vật một bi kịch khác nhau nhưng khi ta gom lại sẽ thấy được cái hình dáng của một nhân vật lớn mà nhà văn hướng đến: nhân vật Lịch sử. Hay nói cách khác, những bi kịch của lịch sử đã được nhà văn Dương Hướng chia đều cho mỗi nhân vật của mình. Mặc dù thế, khi gấp trang sách lại, cái dư ba để lại trong lòng người đọc không phải là một cái nhìn bi quan mà là một niềm tin vào con người, vào cái tình người ấm áp được bao trùm toàn bộ tác phẩm. Dù có phải trải qua những tai biến dữ dội của lịch sử, nhân cách con người đôi khi bị méo mó dị dạng, què quặt nhưng con người luôn cố gắng vươn lên, không ngừng đấu tranh với cái ác, cái xấu để cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và đặc biệt cái hạt giống của nhân tính trong mỗi con người luôn luôn trường tồn một cách bất diệt. Có lẽ vì thế hầu hết những nhân vật trong Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng là những số phận bi kịch nhưng là những bi kịch lạc quan. Ta có thể thấy rõ điều này qua các nhân vật như Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Hoàng Kỳ Nam, Đào Kinh, Đào Vương, Thương Huyền, Tuyết...
2.4.  Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
     2.4.1. Nghệ thuật xây dựng ngoại hình và hành động nhân vật.
Xây dựng nhân vật là một quá trình tìm tòi và sáng tạo của nhà văn. Mỗi nhà văn có những thủ pháp xây dựng riêng biệt mang đậm phong cách sáng tạo của mỗi người. Qua nhân vật, nhà văn thể hiện những tư tưởng và quan niệm của mình. Dương Hướng là một cây bút tiểu thuyết mang phong cách truyền thống nên cách xây dựng nhân vật của ông cũng theo những thi pháp truyền thống phương Đông: xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động. Tuy nhiên, ta vẫn thấy thấp thoáng những thủ pháp xây dựng nhân vật theo hơi thở hiện đại: nghệ thuật khắc họa tâm lý, sự đa chiều trong tính cách nhân vật... Sự đan cài của thi pháp truyền thống và hiện đại đã tạo nên sức hút cho nhân vật Dưới chín tầng trời.
·        Ngoại hình
Ngoại hình là một khái niệm chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật. Đó là những nét nói về diện mạo, hình dáng, cử chỉ, tác phong của nhân vật được đề cập đến trong tác phẩm. Qua nét diện mạo bên ngoài một phần sẽ biểu hiện tâm hồn, tính cách của nhân vật. Để xây dựng tính cách nhân vật, nhà văn Dương Hướng cũng rất chú ý đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Qua ngoại hình của nhân vật phần nào người đọc đã đoán ra được tính cách cũng như số phận của nhân vật.
Trong Dưới chín tầng trời, thủ pháp miêu tả ngoại hình cũng được nhà văn Dương Hướng sử dụng một cách triệt để. Chỉ bằng vài nét chấm phá nhưng mỗi nhân vật trong Dưới chín tầng trời hiện lên thật rõ nét và sinh động. Mỗi nhân vật, nhà văn Dương Hướng chỉ trọn những nét tiêu biểu về ngoại hình để miêu tả theo phương pháp “lấy điểm vẽ diện” trong truyền thống. Như Trần Tăng, là một người nắm giữ quyền lực trong tay nên lúc nào trông ông ta lúc nào cũng “bước chậm từng bước kiêu hãnh... với vẻ thư thái tĩnh tại” (24,26), hay nhân vật Thu Cúc khi nói đến cái gì cũng nâng lên thành lập trường tư tưởng, giai cấp, lời nói lúc nào cũng “vanh vách lập trường”. Dù Thu Cúc nói chuyện với ai cũng lên giọng như “một quan tòa”, như muốn “át” người đối thoại với mình. Khuân mặt lúc nào cũng “khó đăm đăm”. Thể hiện rõ một con người đã từng trải qua những năm tháng gian khổ cách mạng đồng thời là một con người quá lý trí. Lý trí là một cái ghen quá trội trong con người Thu Cúc cộng thêm sự rập khuân, cố chấp, bảo thủ trong lập trường giai cấp đã biến chị ta thành một con người khô khan, tàn nhẫn...
Bên cạnh cử chỉ, diện mạo thì nhà văn Dương Hướng rất chú ý đến việc khắc họa khuân mặt của nhân vật, đặc biệt là đôi mắt của nhân vật. Dân gian thường có câu nói: “Nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng. Khuân mặt chính là nơi biểu hiện cái thần khí về tâm hồn con người. Khi nói về nhân vật quyền lực nhất trong Dưới chín tầng trời – Trần Tăng, nhà văn cũng chú ý khắc họa về hình dáng của ông ta với: “nước da mai mái, đầu to, cằm nhọn, miệng lại rộng hoác”(24,80). Cái hình dáng bên ngoài đó đã đưa đến cho người đọc một cảm giác bất ổn nào đó. Nó dự báo một sức mạnh vô hình sẽ gây nên biết bao nhiêu sóng gió cho cuộc sống con người. Khi tiếp xúc với nhân vật Yến Quyên, điều làm ta ấn tượng đó là: “nước da thắm hồng, mắt như mắt đức mẹ, cái miệng cười rõ tươi lại duyên ở hai má lúm đồng tiền”(24,46). Một nét đẹp hiền hòa, thánh thiện trên khuân mặt biểu lộ một tấm lòng nhân ái, sống có tình có nghĩa. Nhưng sau khi miêu tả cái vẻ đẹp mê đắm lòng người của Yến Quyên, nhà văn Dương Hướng lại thêm vào một câu triết lý: “Người đẹp dễ sinh tai họa” (24,46) như báo trước những khó khăn, trắc trở mà Yến Quyên sắp phải trải qua. “Người đẹp dễ sinh tai họa” được nhắc lại hai lần như một là một lời ngỏ đầu dự báo cho số phận của những người phụ nữ đẹp trong Dưới chín tầng trời. Như Thương Huyền, là một sinh viên văn khoa Sài Gòn cũng có một vẻ đẹp kiêu sa, lộng lẫy làm say đắm lòng người nhưng rồi cuộc đời của cô lại là một tấn bi kịch. Khi nói về Cam, vợ của Đào Kinh, nhà văn Dương Hướng chỉ tập trung khắc họa một chi tiết: đôi mắt “mắt nàng đong đưa”(87), rồi “mắt nàng lúng liếng đa tình”(24,88) đã thể hiện đây là người đàn bà có thói lẳng lơ, đa tình. Người ta thường nói: “ đôi mắt là của sổ của tâm hồn” thật không sai. Trong Dưới chín tầng trời, hầu hết những biến đổi trong tâm trạng của nhân vật được thể hiện qua sự thay đổi trong đôi mắt của nhân vật. Đôi mắt của Yến Quyên bao dung, dịu hiền như Đức Mẹ là thế mà khi đối mặt với kẻ đã gây nên cái chết cho bố mẹ chồng và gieo rắc tai họa cho gia đình mình bỗng trở nên “rực lửa căm hờn”(88,24). Đôi mắt thể hiện sự xót xa, đầy phẫn uất, căm hờn đang trào lên trong tâm hồn của Yến Quyên. Thương Huyền, một cô sinh viên văn khoa Sài Gòn có đôi mắt “long lanh trong sáng” , sau khi trải qua những đau khổ đôi mắt lúc nào cũng “chứa chất nỗi u hoài”(24,291). Qua những biến đổi trong đôi mắt của nhân vật, nhà văn Dương Hướng đã thể hiện rất rõ tâm trạng nhân vật của mình.
Một điều đặc biệt là các nhân vật nữ trong Dưới chín tầng trời đểu rất đẹp. Nét đẹp của người phụ nữ được thể hiện chủ yếu ở khuân mặt, làn da, ánh mắt... Mỗi nhân vật đều có những vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu Yến Quyên mang một vẻ đẹp kiêu sa thánh thiện mang phong cách truyền thống, thì Thương Huyền lại có một vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy như một thiên thần, Tuyết lại mang một vẻ đẹp khỏe mạnh của người con gái nơi làng quê, Cô Mai Tàu lại mang một vẻ đẹp của một người đàn bà từng trải.... Trong thi pháp xây dựng nhân vật truyền thống người phụ nữ thường hiện lên rất đẹp, tuy nhiên vẻ đẹp của người phụ nữ thường mang tính chất ước lệ và được bộc lộ qua điểm nhìn của tác giả. Còn trong Dưới chín tầng trời, nét đẹp của người phụ nữ lại được phản chiếu qua những điểm nhìn khác nhau, có thể là điểm nhìn của người kể chuyện, hoặc là từ điểm nhìn của những nhân vật khác. Ví dụ vẻ đẹp của nhân vật Yến Quyên được bộc lộ qua điểm nhìn của người kể chuyện, qua lời nhẫn xét của Hoàng Kỳ Nam, của Trần Tăng..., vẻ đẹp của Thương Huyền được bộc lộ qua điểm nhìn của Hoàng Kỳ Nam, Đỗ Hoàng, phi công Hall,... Điều này làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong Dưới chín tầng trời được bộc lộ một cách tự nhiên và mang tính khách       quan. 
Như vậy, miêu tả ngoại hình, nhà văn Dương Hướng không tiến hành sao chụp một cách máy móc chân dung của nhân vật mà chỉ phác họa bằng một vài nét điển hình, riêng biệt mang tính chất chấm phá. Tuy nhiên, chỉ với những nét chấm phá ấy lại đem lại giá trị lớn cho hình tượng nhân vật trong Dưới chín tầng trời. Nó vừa mang tính chất tạo hình, vừa có khả năng thể hiện một cách sinh động tính cách của nhân vật, đồng thời tạo những ấn tượng mạnh cho người đọc khi nhận dạng nhân vật. Qua ngoại hình về nhân vật, quan niệm về con người cũng được thể hiện một cách đậm nét.
Hành Động
Cùng với miêu tả ngoại hình thì hành động cũng được coi là một thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng tính cách. Có thể nói, hành động chính là những việc làm cụ thể của nhân vật trong những tình huống khác nhau của cuộc sống hay trong mối quan hệ ứng xử với những nhân vật khác. Thông qua hành động những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái tình cảm của nhân vật được bộc lộ một cách rõ nét nhất.
Trong Dưới chín tầng trời, khi xây dựng nhân vật, nhà văn Dương Hướng cũng chú ý tới những chi tiết miêu tả hành động để bộc lộ tâm trạng và tính cách của nhân vật. Trong chương “Lời nhắn gửi vào ngọn cau”, qua hành động mổ bụng của bà Hoàng Kỳ Bắc đã chứng minh cho nhân cách cao đẹp của nhân vật này. Bà thà lấy cái cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của ông Hoàng Kỳ Bắc, của gia tộc Hoàng Kỳ chứ không chịu khuất phục trước cái ác, không thể ra đấu tố chồng mình. Cũng trong chương này, hành động không khuất phục của nhân vật Yến Quyên trước những lời dụ dỗ và dọa dẫm của Trần Tăng đã thể hiện cô là người đàn bà tiết hạnh. Trong chương Cái sân gạch, hành động dám nói thẳng những sai lầm, những mặt hạn chế trong phong trào Hợp tác xã đã làm sáng rõ tính cách ngay thẳng, dám đứng lên đấu tranh với hành động sai trái của người cán bộ, thể hiện tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của Yến Quyên đối với dân làng Đoài. Trong chương Sắc màu thời gian, hành động tử tự của ông Đức Cường đã nói lên sự đau đớn tuyệt vọng nhân vật này trước nghịch cảnh đang diễn ra tại dinh thự của mình. Hành động bỏ nghề viết báo và bỏ vợ để vào chăm sóc cho Thương Huyền của Hoàng Kỳ Nam đã thể hiện đây là một con người sống có trách nhiệm, một con người dám sống vì mình. Với những hành động quyến rũ Yến Quyên, tằng tịu với Cam, bắt bồ với Tuyết đã chứng minh cho thói trăng hoa, đa tình của Trần Tăng. Đặc biệt trong tình huống, Trần Tăng ngủ với cô Cam bị chồng cô ta là Đào Kinh bắt được, thì hành động của Trần Tăng là gọi dân quân đến bắt Đào Kinh nhốt vào chuồng trâu với tội danh bỏ vị trí về ngủ với vợ khiến Đào Kinh không dám làm gì bởi nếu hé lộ thì sẽ bị Trần Tăng cho vào tù. Qua hành động vừa ăn cướp vừa la làng này của Trần Tăng, cho thấy đây là một nhân vật xảo trá, sống xa đọa nhưng lại có uy quyền rất lớn...Với việc miêu tả hành động, tính cách của từng nhân vật trong Dưới chín tầng trời dần dần được hoàn thiện. Mặt khác, những hành động này còn góp phần thúc đấy cho cốt truyện phát triển.
    2.4.2. Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân  vật.
Bên cạnh việc xây dựng nhân vật theo ngoại hình và hành động, nhà văn thường chú ý tới khắc họa tâm lý cho nhân vật của mình. Tâm lý là khái niệm chỉ toàn bộ những trạng thái, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác của nhân vật trước hoàn cảnh và tình huống mà nhân vật trải qua. Trong Dưới chín tầng trời nhà văn Dương Hướng cũng rất quan tâm đến khía cạnh xây dựng tâm lý nhân vật. Thủ pháp mà nhà văn Dương Hướng thường dùng trong quá trình xây dựng tâm lý nhân vật là dùng lời trực tiếp của người kể chuyện, những dòng độc thoại nội tâm, và cả trong đối thoại giữa các nhân vật để khắc họa tâm lý nhân vật.
Mở đầu của tiểu thuyết là hình ảnh Hoàng Kỳ Nam với những suy tư khi anh đứng trên bãi biển để chờ đón Hall và Ngọc Lan được thể hiện qua lời của người kể chuyện: “Tiếng nhạc từ công viên Hoàng Hôn cuốn hút con người ta lao vào vòng xoáy lốc quay cuồng của thời đại tân kỳ, thời đại mà cỏ nhân loại đang mê mải đắm chìm trong giàu sang và lạnh lùng với mọi biến cố, mọi tai họa đang diễn ra từng ngày từng giờ trên thế gian này. Anh muốn quên đi những tháng ngày lam lũ đã qua, quên đi nỗi khốn cùng của một thời quá khứ. Hãy quên mọi chuyện... để được sống những giây phút thanh thản. Hãy quên...”(24,7-8). Qua những suy tư này ta thấy Hoàng Kỳ Nam là một con người tình cảm, thiên sống về nội tâm. Hay đoạn miêu tả thương gia Đức Cường sau khi rời khỏi tiệc cưới của Thu Cúc: “Chưa bao giờ ông thấy mình chán nản như lúc này. Ông là kẻ thất bai thảm hại nhất trên đời. Trong tay ông đã từng có hai nhà máy và bao nhiêu cửa hàng buôn bán trên khắp mọi miền. Ông đã từng kiêu hãnh là một thương gia có tinh thần yêu nước hết lòng ủng hộ cách mạng, vậy mà giờ đây trắng tay. Ông trở thành kẻ có tội với vợ con. Bà hãy tha thứ cho tôi, các con hãy tha thứ cho ba...”(24,279) đã nói lên được cái tâm trạng chua xót, đắng cay và tuyệt vọng của nhân vật này. Như vậy, nhà văn đã sử dụng những câu trần thuật của người kể chuyện để thể hiện giọng điệu và nội tâm của nhân vật. Với hình thức này, dòng tâm trạng của nhân vật được tái hiện một cách tự nhiên.
Độc thoại nội tâm là một hình thức được thức thường được các nhà tiểu thuyết đương đại sử dụng trong nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật. Hình thức này cũng được nhà văn Dương Hướng vận dụng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong cuộc gặp mặt giữa Trần Tăng và Yến Quyên ở huyện đường, sau lời của người kể chuyện là những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật này: “Suy cho cùng cũng tại giời đất này sinh ra thằng đàn ông nhiều đam mê nhiều tham vọng như ta, lại còn sinh ra loại đàn bà đầy ma lực như Yến Quyên, tại hương sắc của nàng quyến rũ ta đến mê mẩn tâm thần. Ta phải dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt trái tim kiêu hãnh của nàng. Đã có lúc Trần Tăng này thề dù có phải đánh đổi cả sự nghiệp công danh cũng cam lòng để có nàng... nếu không có nàng Cam Quýt, vợ Kinh bù đắp, làm dịu vết thương lòng của Trần Tăng thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Cám ơn nàng Cam, nàng đã đến với ta đúng lúc ta cô đơn, nàng là liều thuốc an thần hiệu nghiệm nhất mà ta có.”(24,123) đã thể hiện rõ tâm trạng thất bại của Trần Tăng Trước người đàn bà đẹp nhất làng Đoài. Sau khi giết chết cố vấn Mỹ Bell và biết mình có con với ông ta, những ngày còn lại sống trong Trung tâm Tâm lý chiến phi trường, tâm trạng của Thương Huyền luôn bị dằng xé trong nỗi đau khổ tột cùng vì chính mình đã giết chết cha của đứa con trong bụng mình. Qua ngôn ngữ của người kể chuyện đan xen với dòng độc thoại nội tâm của nàng đã thể hiện rõ tâm trạng đau đớn của nàng: “Đã sắp đến ngày con nàng chào đời. Nó đòi ra để trừng phạt nàng, trừng phạt thế giới này, thế giới của những người đang sống và cả những người đang chết. Đấy! Nó đang đạp nhoi nhói. Nó ra đời, lớn lên nó sẽ hỏi ba nó là ai? Ai đã giết ba nó? Nó còn có cả con chị nó là Ngọc Lan, không biết đang ở đâu, còn sống hay đã chết rồi. Nó sẽ hỏi tại sao má lại không nuôi chị Ngọc Lan?...”(24,174). Không những thế, tâm trạng của nhân vật còn được thể hiện qua đối thoại. Trong cuộc nói chuyện giữa Đào Kinh và Măng trong biệt thự ở Tây Hồ đã nói lên được cái tâm trạng chán trường, mệt mỏi của Măng trong cuộc sống giàu có phù hoa của mình và mơ về một cuộc sống thanh bình nơi làng quê: “Con ước mơ được là con bé Măng bé bỏng ngày  xưa được bố ôm ấp ru con ngủ. Bố đã dắt con chạy trên bờ sông Đình làng Đoài. Dòng sông quê hương yêu dấu...”(24,402).
Như vậy, ngòi bút của nhà văn Dương Hướng trở nên rất linh hoạt trong việc sử dụng những phương thức khác nhau để biểu hiện tâm lý của nhân vật. Qua những phương thức: độc thoại nội tâm, đối thoại, ngôn ngữ của người kể chuyện đã làm cho những dòng tâm trạng, cảm xúc, những suy tư, trăn trở..  trong nội tâm của từng nhân vật hiện lên một cách sắc nét và sinh động. Tính cách nhân vật trở nên đa thanh và toàn vẹn hơn trong mắt người đọc. Qua đó cũng thể hiện cái tài và cái tâm của nhà văn đối với con người. Bởi nếu không có cái tâm thì làm sao nhà văn có thể đi sâu vào khám phá thế giới tâm linh của con người?



CHƯƠNG 3: CỐT TRUYỆN TRONG DƯỚI CHÍN TẦNG TRỜI CỦA NHÀ VĂN DƯƠNG HƯỚNG.
·        .  Lý luận chung về cốt truyện.
Giống như nhân vật, cốt truyện được coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong văn học, đặc biệt là ở thể loại tự sự. Là một phương diện của hình thức tác phẩm nhưng cốt truyện lại có tác động không nhỏ tới chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Một tác phẩm có cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn sẽ làm cho chủ đề của tác phẩm có sức thuyết phục hơn.
        Với vai trò quan trọng, vấn đề cốt truyện đã được nghiên cứu từ rất sớm trên thế giới. Người đặt viên gạch đầu tiên cho lịch sử nghiên cứu cốt truyện là Aristoste với tác phẩm “Nghệ thuật thơ ca”. Trong tác phẩm này, khi nói về cốt truyện Aristoste cho rằng: “ Cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch”. Cốt truyện được tạo ra bởi sự kiện và hành động, trong đó ông chú ý đến cách xắp xếp và tổ chức của chúng. Ông khắng định: “ Ngoài các mối liên hệ bên ngoài có tính chất thời gian và nhân quả, giữa các sự kiện được miêu tả lại còn có các mối liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc.”. Ở Việt Nam, cốt truyện cũng là một trong những vấn đề làm tốn khá nhiều giấy mức của các nhà nghiên cứu văn học. Nhiều khái niệm, định nghĩa về cốt truyện đã được đưa phần nào đã chứng tỏ tâm huyết của các nhà nghiên cứu về vấn đề cốt truyện. Trong Từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên thì đưa ra khái niệm: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo nhu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ thể quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch. Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm văn học. Trong các tác phẩm trữ tình, cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái niệm này) không tồn tại vì ở đây, tác giả biểu hiện sự diễn biến của tích cách, tâm trạng” (7,586). Trong tác phẩm 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân chủ biên cốt truyện cũng được hiểu như sau: “Cốt truyện là sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phảm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình”(6,112). Trong cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, cốt truyện được hiểu là: “ Cốt truyện là  một hệ thống những diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” (4,137)
Như vậy, khái niệm cốt truyện không mang tính phổ quát cho tất cả các tác phẩm văn học ở những thể loại khác nhau. Cốt truyện được dùng chủ yếu cho tác phẩm tự sự hoặc kịch mà ít được dùng trong các tác phẩm thơ ca. Và cái hạt nhân cơ bản để tạo nên cốt truyện chính là sự kiện.
Sự kiện là những biến đổi, những chuyển biến, những sự cố có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật, làm cho nhân vật và mối quan hệ giữa chúng biến đổi theo nó. Cũng chính vì thế nhà văn Gorki đã từng coi cốt truyện là hệ thống các quan kệ qua lại của các nhân vật, là “sự phát triển và tổ chức một tính cách”. Qua những sự kiện tính cách của nhân vật được định hình và bộc lộ một cách rõ ràng nhất để rồi phát lộ ra cái chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Do đó sự kiện văn học được coi là biểu hiện của những giá trị tinh thần. Trong cốt truyện, những sự kiện lớn được gọi là những biến cố (như sự kiện Chí Phèo bị Bá Kiến bắt đi tù, hay sự kiện cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác xã... trong Dưới chín tầng trời của Dương Hướng). Những sự kiện này có thể tạo thành những bước ngoặt trong cuộc đời của nhân vật. Còn những yếu tố cụ thể tạo thành sự kiện được gọi là tình tiết. Các sự kiện có thể được sắp xếp theo trật tự thời gian hoặc cũng có thể tính tuyến tính của thời gian bị phá vỡ (điều này phổ biến văn học đương đại). Sự phá vỡ, đảo lộn về thời gian này có thể là một thủ pháp nghệ thuật đồng thời nhằm gây ấn tượng mạnh đến người đọc.
        Cốt truyện có ba đặc điểm: tính lịch sử - cụ thể, tính kịch và tính hoàn chỉnh. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong một giai đoạn nhất định, do đó lịch sử được soi chiếu trong nó là một điều không thể tránh khỏi. Tính lịch sử - cụ thể của cốt truyện được biểu hiện thông qua sự chân thật của các sự kiện lịch sử và qua đặc điểm của các tính cách. Tính kịch trong cốt truyện được biểu hiện ở những xung đột, những mâu thuẫn của đời sống được phản ánh trong tác phẩm (như xung đột giữa nông dân và địa chủ, cường hào trong Tắt đèn, Bước đường cùng, Chí Phèo). Chính tính kịch đã tạo nên độ căng cho cốt truyện đồng thời qua đó tính cách bộc lộ bản chất và chủ đề tư tưởng của tác phẩm được khẳng định một cách sâu sắc. Đặc điểm cuối cùng của cốt truyện là tính hoàn chỉnh. Có nghĩa là các sự kiện của cốt truyện phải được sắp xếp, tổ chức một cách chặt chẽ đồng thời các sự kiện này phải có những mối liên hệ với nhau.  Ví dụ trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, nếu không có sự kiện Chí Phèo gặp Thị Nở tại vườn chuối trong một đêm trăng sẽ không có sự kiện bát cháo hành thì có lẽ Chí Phèo sẽ không nhận ra cái bi kịch không được làm người của mình. Một điều cần chú ý của cốt truyên nữa là quá trình vận động của cốt truyện. Có thể nói các bước diễn biến của cốt truyện cũng tương tự như quá trình phát triển của xung đột gồm năm bước: mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay với quy luật sáng tạo của văn học, cấu trúc của tác phẩm văn học cũng như tiểu thuyết là cấu trúc mở nên không phải nhất thiết có đầy đủ các bước diễn biến của cốt truyện. Điều nay có lẽ phù hợp với tiến trình phát triển của văn học.
3.2. Một số quan niệm về cốt truyện.
    3.2.1. Quan niệm truyền thống.
Trong quan niệm truyền thống, cốt truyện giữ một vai trò đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Nó được coi là xương sống của tác phẩm. Nếu một tác phẩm không có cốt truyện hay, hấp dẫn thì sẽ được coi là không thành công.
Cốt truyện trong quan niệm truyền thống được hiểu là tiến trình của các sự kiện liên hệ với nhau có tính chất thời gian hay tính chất nhân quả. Có nghĩa là sự kiện nào xảy ra trước thì nó xuất hiện trước, sự kiện nào xảy ra sau thì xuất hiện sau. Hay nói cách khác các sự kiện được sắp xếp theo quán tính của thời gian. Còn tính nhân quả chính là quan niệm bất cứ một cái gì xảy ra đều có nguyên nhân của nó (cái này xảy ra vì có cái kia), và cái thiện bao giờ cũng chiến thắng đối với cái ác. Một đặc điểm mà ta dễ nhận ra trong văn học truyền thống là tính chất kể chuyện. Khi tiếp nhận một tác phẩm, cái người đọc quan tâm là có thể kể được, do đó họ chỉ chú ý tới cốt truyện mà ít quan tâm đến cách viết của nhà văn. Điều này, đã quy định phương thức sáng tạo của văn học tự sự truyền thống. Các nhà văn luôn chú ý tìm tòi, sáng tạo những cốt truyện sao cho thật độc đáo, thật ly kỳ và kịch tính. Họ đưa nhân vật của mình trải qua thật nhiều những tai biến, những thử thách khó khăn để rồi từ đó làm sáng lên tư tưởng của tác phẩm.
Mô hình của cốt truyện truyền thống thường là: trình bày – khai đoạn – phát triển – cao trào – kết thúc. Trong đó phần trình bày giới thiệu một cách khái quát bối cảnh lịch sử, sự việc và nhân vật, về quan hệ gia đình của nhân vật. Trong Truyện Kiều, phần mở đầu Nguyễn Du đưa đến cho bạn đọc những thông tin về thời đại, địa điểm diễn ra câu chuyện (thời Gia Tĩnh triều Minh) và gia cảnh nhà Kiều. Hay trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, phần mở đầu của mỗi truyện đều giới thiệu thời đại và nơi xảy ra câu chuyện, sau đó là giới thiệu về nhân vật chính của truyện. Ví dụ như trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên, đoạn mở đầu của tác phẩm là: “Trong năm Quang Thái đời nhà Trần, người ở Hóa Châu tên Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri Huyện Tiên Du...”, hay trong truyện Chuyện gã trà đồng giáng sinh ( Trà đồng giáng đản lục) mở đầu là: “Dương Đức Công tiên Tạc, người phủ Thường Tín xứ Sơn Nam. Về triều vua Huệ Tông nhà Lý, ông làm quan coi việc hình án trấn Tuyên Quang xét rõ mọi điều oan khuất, khiến các vụ án đều được công bằng..”. Phần này có tác dụng là thuyết minh cho lí do hành động của nhân vật trong phần sau.
Phần khai đoạn, bắt đầu xuất hiện những sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu cho quá trình bước vào thử thách của nhân vật, tạo tiền đề cho sự kiện phát triển. Trong Truyên Kiều đó chính là sự kiện gia đình Kiều gặp nạn và hành động bán mình chuộc cha của Kiều. Chính sự kiện này mở đầu cho những ngày tháng lưu lạc đầy sóng gió của nàng Kiều. Ở đây, Nguyễn Du đã phần nào hé lộ những xung đột trong xã hội phong kiến. Còn trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là hành động cứu Kiều Nguyệt Nga của Lục Vân Tiên.
Ở phần phát triển toàn bộ các sự kiện được triển khai trong sự vận động của các mối quan hệ và mâu thuẫn đã xảy ra. Các sự kiện phải được sắp xếp theo trật tự thời gian. Nó bao gồm nhiều cảnh ngộ, nhiều biến cố khác nhau được trải ra trên trục thời gian của tác phẩm. Và cường độ xung đột ngày càng gia tăng để từ đó đi đến điểm đỉnh của mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Từ đó tính cách nhân vật được khẳng định dần và đi đến hoàn chỉnh. Trong Truyện Kiều là 15 năm lưu lạc của nàng Kiều. Phần này chiếm một phần lớn của tác phẩm.
Phần cao trào, các sự kiện thử thách được đưa lên cao nhất, điểm đỉnh cùng với nhân vật. Cao trào chính là sự kiện dẫn đến bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật và là sự phát triển cao nhất của cốt truyện (là lúc Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm nhục và ép lấy tên thổ quan dẫn đến việc Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn). Tính cách nhân vật được bộ lộ và qua đó tư duy cũng như ý nghĩa nghệ thuật sâu xa của tác phẩm được sáng tỏ.
Phần kết thúc, nhà văn đưa ra cách giả quyết của mình đối với những xung đột đã được miêu tả trong tác phẩm. Qua đó cũng thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm, đồng thời cũng thể hiện quan niệm sáng tác của nhà văn.
Nhìn vào mô hình cốt truyện, ta thấy cốt truyện được xây dựng bởi rất nhiều những sự kiện. Hay có thể nói đó là tác phẩm của những sự kiện. Những yếu tố về tâm lý của nhân vật rất ít được nhắc tới mà thường là những hành động. Các nhà văn chủ yếu đi tìm kiếm những sự kiện để nhân vật của mình trải nghiệm, bước qua bằng những hành động cụ thể.Thông qua những hành động sẽ lộ phát cái bản chất của nhân vật làm tư tưởng chủ đề của tác phẩm được tỏa sáng.
Như vậy, theo quan niệm truyền thống, cốt truyện là một chuỗi các sự kiện được sắp xếp theo trật tự của tuyến tính thời gian. Các sự kiện càng éo le, càng ly kì thì tác phẩm càng thàng công. Yếu tố rõ ràng trong cốt truyện phải được đảm bảo để truyện có thể kể lại được.
     3.2.2. Quan niệm hiện nay.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi khuynh hướng hay trong mỗi thi pháp sáng tạo của nhà văn, vai trò của cốt truyện của tiểu thuyết nói riêng và thể loại tự sự nói chung có những cách hiểu khác nhau. Nếu trong cách nhìn truyền thống, sự có mặt của cốt truyện trong tự sự là một điều tất yếu, thì trong thời đại ngày nay “ Cái làm nên sức mạnh cho tiểu thuyết gia chính là ở chỗ anh ta sáng tạo, anh ta hoàn toàn tự do sáng tạo, không có mô hình mẫu”(8,41). Với sự sáng tạo trong đổi mới tư duy nghệ thuật, cốt truyện trong văn học có sự thay đổi một cách rõ nét. Trong thời đại ngày nay, nhà văn có ý thức sâu sắc hơn về tư cách nghệ sĩ của mình nên mạnh dạn vượt qua cái khuôn khổ của truyền thống để vươn tới chân trời sáng tạo nghệ thuật. Những quan niệm truyền thống về cốt truyện bị mờ dần đi trong thể loại tự sự cũng như trong tiểu thuyết đương đại. Nếu trước kia, cốt truyện là tiến trình của các sự kiện thì trong văn học đương đại, cốt truyện lại là hành trình của nhân vật chính di chuyển qua các sự kiện khác nhau. Nó cho phép nhà văn xây dựng những mô hình cốt truyện theo trình tự các sự kiện của cấu trúc nội tại văn bản tác phẩm tạo nên những biến cố đưa nhân vật bước qua ranh giới của nhân vật hành động. Mặt khác, văn học giống như bản sao của thời đại một cách nghệ thuật nên các nhà văn luôn ý thức cách tân cốt truyện sao cho nó phản ánh một cách rõ nhất cái thời đại phức tạp mà mình đang sống. Trên cái nền móng của cốt truyện truyền thống, các nhà văn đã đưa những yếu tố hiện đại vào nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Có nghĩa là một mặt họ vẫn kế thừa và phát triển những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, mặt khác họ cũng vận dụng những lý thuyết hiện đại của thế giới trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của mình. Chính điều này đã phá vỡ mô hình cốt truyện truyền thống trong tác phẩm “Các thành phần: mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút chưa bao giờ là thiết chế nghiêm ngặt đối với sự sáng tạo và vận hành cốt truyện”(Trần thiện Khanh – Cốt truyện trong loại hình tự sự). Các kỹ thuật viết hiện đại như: nghệ thuật đồng hiện, dòng ý thức, kỹ thuật lắp ghép, nghệ thuật gián cách, liên văn bản, huyền thoại... được vận dụng một cách linh hoạt và uyển chuyển trong kỹ thuật xây dựng cốt truyện. Điều này đã làm cho mô hình cốt truyện trong văn học đương đại trở mới mẻ và phong phú hơn.
Trong văn học hiện nay, các nhà văn thường chú ý dựng lên bức tranh tâm lý của con người hơn là hành động. Do đó sự kiện trong cốt truyện thường là rất ít. Mỗi tác phẩm chỉ có một vài sự kiện chính còn chủ yếu là những mảng tâm trạng của con người. Nhà văn thường đi sâu vào những tầng bậc tâm trạng của nhân vật với những suy tư, trăn trở, những dằn vặt, day dứt... để khám phá con người của thời đại. Những dòng hồi ức, những giấc mơ cứ ám ảnh, trở đi trở lại trong văn học đương đại thể hiện sự vận động phức tạp của đời sống và con người. Chính vì thế mà cốt truyện không còn chặt chẽ nữa mà trở nên lỏng lẻo, mơ hồ khó nắm bắt và khó có thể kể lại. Không những thể, tiểu thuyết Việt Nam đương đại diễn ra hiện tượng xâm nhập, giao thoa nghệ thuật của các thể loại khác như: nhật kí, chuyện kể, thư từ, huyền thoại,... làm mở rộng biên độ của cấu trúc tác phẩm, cũng như trường nhìn của tác phẩm. Điều này dẫn đến hiện tượng co giãn cốt truyện trong tiểu. Có thể kể đến các cây bút tiêu biểu đã có những cố gắng trong việc cách tân nghệ thuật xây dựng cốt truyện như: Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ.., Nguyễn Trí Huân với Chim én bay, Nguyễn Xuân Khánh với Mẫu thượng ngàn, Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Tạ Duy Anh với Bước qua lời nguyền, Đi tìm nhân vật, Lão Khổ, Thiên thần sám hối..., Nguyễn Bình Phương với Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tan.., Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, Thuận với Pari 11 tháng 8, T mất tích... Những tác phẩm này sử dụng những thủ những thủ pháp mới trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Trong Ngược dòng nước lũ, đã sử dụng nghệ thuật lắp ghép trong cốt truyện. Trong Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng, Cuộc đời dài lắm... sử dụng phương pháp đồng hiện trong cấu trúc tác phẩm. Ở những tác phẩm này quá khứ và hiện tại đan xen với nhau trong dòng hồi ức của nhân vật là chất liệu chính tạo nên cốt truyện của tác phẩm. Ví dụ trong Nỗi buồn chiến tranh cốt truyện lại được xây dựng theo dòng tâm trạng của nhân vật Kiên.
Như vậy, trong văn học hiện nay, quan niệm về cốt truyện đã có những thay đổi khác trước. Sự kiện không còn được coi là một yếu tố độc tôn để cấu thành cốt truyện nữa mà còn nhiều yếu tố khác như: kí ức, giấc mơ, tâm trạng... Điều này đã làm cho biên độ của cốt truyện được mở rộng, tạo nên sự phong phú trong phương thức sáng tạo cốt truyện. Tuy nhiên, yếu tố cốt truyện trong tiểu thuyết không hề biến mất mà nó có sự co giãn theo cấu trúc của từng tác phẩm, từng thể loại khác nhau. Hay nói cách khác, cốt truyện vẫn tồn tại nhưng ở dưới những dạng thức khác nhau. Điều này đồng nghĩa với việc cốt truyện sẽ luôn là một thành tố cốt lõi trong nghệ thuật sáng tác của tiểu thuyết cũng như trong tất cả các thể loại tự sự.
3.3. Cốt truyện trong tiểu thuyết đương đại.
Trong sự vận động chung của nền văn học, tiểu thuyết – một loại tự sự cỡ lớn đã và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trong dòng chảy chung đó, cốt truyện một yếu tố thuộc về hình thức của tác phẩm cũng có những biến đổi rõ rệt. Với định hướng, văn học “áp sát đời sống”, các nhà tiểu thuyết đã không mệt mỏi trên con đường tìm kiếm những cách thức xây dựng cốt truyện để phản ánh đời sống một cách sinh động và chân thực nhất. Sự phá vỡ cốt truyện truyền thống trong tiểu thuyết đương đại đã tạo nên sự phong phú và đa dạng cho cốt truyện. Mỗi cốt truyện là sự đan xen, giao thoa của nhiều hình thức khác nhau: tiềm thức, giấc mơ, dòng ý thức, lắp ghép, gián cách... trong kĩ thuật sáng tạo cốt truyện. Chính điều này làm cho sự phân loại cốt truyện trong tiểu thuyết đương đại trở nên khó khăn đối với các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn vào bộ mặt phát triển của tiểu thuyết đương đại ta thấy xuất hiện những loại cốt truyện tiêu biểu là: mô hình cốt truyện truyền thống, truyện không có cốt truyện (cốt truyện tâm lý), cốt truyện xây dựng dựa trên những yếu tố kỳ ảo.


·        Mô hình cốt truyện truyền thống.
Trong văn học Việt Nam, cốt truyện được hình thành từ văn học trung đại với mô hình cốt truyện truyền thống như đã nói ở trên. Sang thế kỷ XX, xã hội có những chuyển mình lớn kéo theo những biến đổi trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi đó xuất phát từ nhận thức của nhà văn. Trong giai đoạn này, các nhà tiểu nhà văn ít nhiều được tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây nên tư duy trong văn học và cách viết đã có những biến đổi. Các nhà văn cũng như các nhà tiểu thuyết đã chú ý nhiều đến nghệ thuật biểu hiện hơn trong tác phẩm của mình. Đồng thời họ lấy tác phẩm của mình để phán ánh hiện thực của cuộc sống chứ không phải là “tải đạo” như trước kia. Vì thế văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX ít nhiều mang hơi thở của cuộc sống. Tuy nhiên, cốt truyện vẫn đóng vai trò đáng kể trong các tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Dù có những biến đổi nhưng cốt truyện vẫn “cựa quậy” trong cái khung của mô hình truyền thống. Thậm chí nó còn tạo nên một dòng riêng của những tác phẩm mang tính cổ điển cao trong thể loại tiểu thuyết mà. Có thể kể đến tác phẩm của các nhà văn Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng), Nguyên Hồng (Bỉ vỏ)... vẫn lưu giữ cốt truyện truyền thống. Những tác phẩm này có cốt truyện rất rõ ràng với những xung đột căng thẳng và diễn biến theo thi pháp truyền thống.
Sang giai đoạn 1945 – 1975, do hoàn cảnh của lịch sử Việt Nam đang tiến hành hai cuộc chiến tranh xâm lược vừa đau thương vừa hào hùng. Nhiệm vụ của văn học lúc này là phải phán ánh kịp thời cái không khí phơi phới một niềm tin chiến đấu cho cộng đồng, cho dân tộc để khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người. Hơn nữa, văn học phải nhanh chóng phản ánh các sự kiện lớn lao của lịch sử để phục vụ lợi ích của dân tộc. Do đó cốt truyện truyền thống vẫn giữ được ưu thế tuyệt đối của mình. Cốt truyện thời kỳ này là phương tiện để biểu hiện cuộc sống và tính cách của con người và có tính chất sử thi. Cốt truyện chủ yếu dựa trên những sự kiện những sự kiện lớn của thời đại với phương thức trần thuật của “đại tự sự”. Các tác phẩm tiêu biểu là: Xung Kích của Nguyễn Đình Thi Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu,...
Giai đoạn sau 1975, đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới thì cốt truyện có những biến đổi lớn. Trong thời kỳ này, tiểu thuyết đa dạng hơn về nội dung phản ánh cũng như phương thức thể hiện. Cốt truyện do đó cũng phong phú hơn. Các nhà văn cũng như các nhà tiểu thuyết tự do hơn trong cách xây dựng cốt truyện sao cho phản ánh được con người của thời đại. Tuy nhiên, cốt truyện truyền thống vẫn còn được sử dụng trong tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Bên cạnh những cách tân, những đổi mới nhưng cốt truyện trong tiểu thuyết đương đại vẫn có những kế thừa cũng như phát triển những đặc trưng của cốt truyện truyền thống. Những tác phẩm được sáng tác theo cốt truyện truyền thống vẫn nhận được sự ủng hộ của người đọc. Bởi cốt truyện theo mô hình truyền thống vẫn còn thích hợp với văn hóa đọc và tiếp nhận của độc giả. Những tiểu thuyết: Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, và gần đây là tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng là những tiểu thuyết vẫn giữ mô hình cốt truyện truyền thống nhưng đã gây được sự chú ý đặc biệt trong giới phê bình cũng như với bạn đọc. Như vậy, có thể thấy rằng, cốt truyện theo mô hình truyền thống vẫn chưa hết thời mà vẫn còn có sức tung hoành trong nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
·        Cốt truyện không có cốt truyện.
Cốt truyện không có cốt truyện (hay còn gọi là cốt truyện tâm lý) được coi là một trong những cách tân của các nhà văn đương đại. Đây là mô hình cốt truyện có tính ước lệ và quy ước cao. Nó không lấy các sự kiện lớn có tính chất làm nên bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật làm hạt nhân để xây dựng cốt truyện, mà thay vào đó là những dòng tâm trạng, những suy tư, cảm xúc của con người hoặc nó chỉ là những vụn vặt, thầm lặng của đời sống hàng ngày. Chính vì thế, cốt truyện tâm lý không phát triển theo năm bước như trong cốt truyện truyền thống mà nó lại phụ thuộc vào tâm lý của nhân vật: khi thì dịu êm, lúc thì căng thẳng dằng xé những suy tư chất vấn... do đó không tạo nên độ căng của cốt truyện. Điều này cũng giải thích cho tính chất trữ tình, tính thơ trong tác phẩm tự sự. Nó như chỉ như là hơi thở nhẹ nhàng, man mác của cuộc sống. Cũng do đó mà tính chất kể của cốt truyện truyền thống bị phá vỡ đồng thời những bình diện về thời gian bị xáo trộn. Ở những tác phẩm không có cốt truyện, tâm lý con người được khai thác một cách triệt để tới tận cùng với những biến thái tinh vi nhất: kí ức, cảm xúc, giấc mơ, tự vấn,.... Qua đó, tính cách con người cũng như đời sống xã hội được khúc xạ.
Trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam, kí ức, tâm trạng được coi là thành tố quan trọng để tổ chức tác phẩm và xây dựng cốt truyện. Và sự phát triển của nó đã tạo nên một nhánh riêng trong dòng văn học: văn học dòng ý thức. Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu: Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Cơ hội của chúa của Nguyễn Việt Hà, Thân phận tình Yêu của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai... Trong những tác phẩm này, cốt truyện bị chìm lấp bởi sự diễn biến của tâm trạng, suy tư, cảm xúc của nhân vật. Ví dụ trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, dòng ý thức trở thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối tổ chức kết cấu và cốt truyện. Mọi diễn biến của tiểu thuyết đều đi theo dòng chảy của “những tâm trạng đối nghịch liên tục, suy tư cật vấn trong lương tâm”( 1,412) của nhân vật Kiên. Trong cốt truyện tâm lý, các nhân vật thường tự đối diện với mình, tự bộc bạch và quan sát thế giới xung quanh bằng những tình huống tâm lý. Những tình huống tâm lý thường được tái hiện lại nhiều lần, hoặc gần giống nhau gây nên ấn tượng mạnh cho người đọc, thể hiện những trạng huống tâm lý của nhân vật, đồng thời qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Cũng vì nguyên liệu chính để xây dựng nên cốt truyện là những dòng hồi ức, dòng tâm trạng, những cảm xúc của con người nên cấu trúc thời gian bị xáo trộn, kết cấu tác phẩm trở nên lỏng lẻo, thậm chí là rời rạc, rất khó nắm bắt. Như trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, thời gian quá khứ - hiện tại cứ đan quyện vào nhau với ranh giới rất mơ hồ, và thời gian của dòng ý thức (thời gian quá khứ) chiếm ưu thế hơn là thời gian của hiện tại, hay trong Ăn mày dĩ vãng thời gian của ký ức và thời gian của hiện tại là ngang bằng nhau...
Cốt truyện tâm lý là một hướng đi mới trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của các nhà tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Hiện nay nó đang dần dần chiếm ưu thế với các loại mô hình cốt truyện khác. Bởi trong đời sống hiện nay, con người có xu hướng hướng nội hơn là hướng ngoại nên tiểu thuyết cũng như những loại hình nghệ thuật khác nghiêng về khám phá thế giới bên trong của con người. Điều này cũng lý giải tại sao, có người cho rằng tiểu thuyết Việt Nam hôm nay là một “cuốn bách khoa về tâm hồn” con người.
·        Tổ chức cốt truyện dựa trên yếu tố kỳ ảo.
Kỳ ảo theo tiếng Pháp là “Phantastique” xuất phát từ tiếng La tinh “Phantasticus” với nghĩa là: “kỳ lạ, tựa như không có thật mà chỉ có trong tưởng tưởng”(Từ điển tiếng Việt, nxb Thanh Hóa, 1988, 617). Cái  kỳ ảo là một trong những yếu tố được sử dụng rất sớm trong văn học ở cả phương Đông và phương Tây. Cho đến nay cái kỳ ảo không hề mất đi mà vẫn hiện diện một cách mạnh mẽ trong những trang sách của các nhà văn.
Ở văn học phương Tây ta có thể kể đến những tác phẩm mang đậm dấu của yếu tố kỳ ảo là: Trường ca ÔđixêIliat của Homerơ; Tấn trò đời, tấm da lừa...của Banzac; những sáng tác của Proust, Kafka, Marguez... Ở phương Đông là Ngìn lẻ một đêm của Ả Rập; các sử thi, thần thoại của Ấn Độ; các tiểu thuyết chương hồi, truyện thần kỳ của Trung Quốc như: Tây Du Kí, Phong thần..  sau này là những sáng tác của Lỗ Tân. Dù cường độ ít hay nhiều nhưng yếu tố thần kỳ đã đem lại sự hấp dẫn và thành công cho tác phẩm.
Ở Việt Nam, yếu tố kỳ ảo cũng xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học. Đầu tiên cái kỳ ảo tồn tại trong văn học dân gian truyền miệng: thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết. Trong văn học Trung đại, yếu tố này ít nhiều xuất hiện trong những tác phẩm văn xuôi như Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, Thiền uyển tập anh (khuyết danh), Truyền Kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ...  Sang thế đầu thế kỷ XX, cái kỳ ảo xuất hiện không nhiều lắm trong văn xuôi. Ta có thể tìm thấy cái kỳ ảo trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân, Truyện kinh dị của Thế Lữ. Giai đoạn sau (1945-1975), do yếu tố khách quan và chủ quan mà cái kỳ ảo dường như bị lãng quên trong nền văn học của chủ nghĩa anh hùng. Người ta ngỡ rằng cái kỳ ảo sẽ bị chôn vùi và lãng quên mãi mãi. Thế nhưng, nó như một ngọn lửa nhỏ được ủ ấm trong tro rồi một ngày nó bùng lên ngày càng mạnh mẽ. Trong văn học đương đại hôm nay, cái kỳ ảo được coi là một phương thức hữu hiệu để chiếm lĩnh đời sống, một cách thể hiện nghệ thuật độc đáo và ẩn chứa nhiều đặc trưng tư duy nghệ thuật mới. Bởi thế, cái kỳ ảo hiện hữu một cách thường xuyên với tần suất ngày càng nhiều trong các tác phẩm tiểu thuyết.
Bên cạnh yếu tố hiện thực, các nhà tiểu thuyết thường áp dụng cái kỳ ảo trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Điều này đã tạo nên những hiệu ứng tốt cho các tác phẩm tiểu thuyết. Qua sự kết hợp của cái kỳ ảo và hiện thực trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nhà văn đã tạo nên một hiện thực mới giàu nghĩa nhận thức và thẩm mỹ. Cho nên theo nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Nguyên Cẩn “Cái kỳ ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật”. Điều này thật đúng. Trong văn học dân gian, cái kỳ ảo được sử dụng như một phương thức thể hiện những hiện tượng thiên nhiên mà con người không giải thích được. Còn trong tiểu thuyết đương đại, các nhà văn đã dùng những tố kỳ ảo để lý một cách có hiệu quả thế giới đa diện theo chiều sâu. Yếu tố kỳ ảo trong cốt truyện tiểu thuyết đương đại được biểu hiện chủ yếu thông qua: nhân vật kỳ ảo (đứa bé trong Thiên thần sám hối, Hồn ông bố chồng trong Bóng đè); sự siêu phàm, siêu nhiên bí ẩn; sự ám ảnh, mộng mị, tiềm thức; luật quả báo và sự quái đản, bất ngờ. Có thể kể đến các tác phẩm: Đám mây cánh bạc của Thu Bồn, Thiên thần sám hối của Ta duy Anh, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, T mất tích của Thuận,... đã sử dụng cái kỳ ảo để phản ánh thái độ của con người trước những ẩn ức xã hội, những điều kiêng kị trong xã hội không được phép nói đến. Cái kỳ ảo còn là sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị chân- thiện-mỹ. Nó như là tiếng chuông cảnh tỉnh con người về sự đổ vỡ những giá trị đạo đức truyền thống, tập trung tô đậm sự tha hóa sâu sắc của con người hiện tại.
Như vậy, việc sử dụng yếu tố kỳ ảo để xây dựng cốt truyện trong tiểu thuyết Việt Nam có sự đậm nhạt khác nhau theo thời gian. Điều này chứng nó là một trong những thủ pháp hữu hiệu để các nhà tiểu thuyết gửi gắm tư tưởng nghệ thuật của mình. Và nhà văn Valery đã có lý khi cho rằng:  Có tác phẩm văn học nào bền vững hơn là những sáng tạo văn chương kỳ ảo. Cái ảo và cái thần kỳ lại còn giàu nhân tính hơn những con người hiện thực. Tạo một thế năng lớn trong những sáng tác của các nhà văn nhà thơ ở thời đại tiếp theo.
    3.4. Cốt truyện trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng.
Bên cạnh nhân vật thì cốt truyện cũng là một trong những thành công của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Trong lời giới thiệu sách, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã viết: “ Nếu như tiểu thuyết trước hết là cốt truyện thì tác phẩm này thứa sức hấp dẫn. Vì cốt truyện rất ly kỳ, nhiều tuyến nhân vật quan hệ éo le, nhiều tuyến hành động diễn ra các miền Bắc, Trung, Nam...”(24,503). Sự thành công của cốt truyện trong Dưới chín tầng trời không phải là ở sự cách tân mới mẻ mà là nhờ sự vận dụng một cách khéo léo mô hình cốt truyện truyền thống kết hợp với một số biện pháp nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại như nghệ thuật tổ chức sắp xếp sự kiện, sử dụng những chi tiết mang tính biểu tượng... Qua đó lịch sử được hiện lên một cách toàn diện ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
       3.4.1. Mô hình cốt truyện truyền thống.
Mô hình cốt truyện truyện truyền thống của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời được thể hiện trước tiên ở sự tuân thủ các bước đi của cốt truyện truyền thống. Bắt đầu tiểu thuyết là sự kiện hai nước Việt – Mỹ bình thường hóa mối quan hệ trở lại sau bao năm Mỹ thực hiện chính sách cấm vận Việt Nam với hình ảnh: Con tàu đến từ nước Mỹ. Trong chương đầu tiên, những nhân vật được coi là tiêu biểu của cuốn tiểu thuyết được giới thiệu một cách trực tiếp như Hoàng Kỳ Nam, Đào Kinh, Đào Thanh Măng,... hoặc gián tiếp như: Thu Cúc, Trần Tăng, Thương Huyền, Đào Vương, Tuyết, Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Đỗ Hiền... Sau đó chương hai với tên gọi “Thiên đường Hoàng Thiên Long” vẫn mang tính chất giới thiệu với người đọc về địa vị, mối quan hệ giữa các nhân vật cũng như địa điểm trung tâm của câu chuyện: làng Đoài. Có thể coi hai chương đầu của tiểu thuyết chính là phần mở đầu trong cốt truyện truyền thống. Sang chương thứ ba được coi là chương khai đoạn hoặc thắt nút của tác phẩm với sự kiện làng Đoài bước vào công cuộc cải cách ruộng đất. Công cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam diễn ra vào những năm 1955 – 1956 với mục tiêu nhằm đem lại ruộng đất cho dân cày. Cuộc cải cách đã có những thành tựu lớn và đem đến cho nông thôn Việt Nam một diện mạo mới. Tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng tồn tại những thiếu sót và sai lầm tạo nên những bi kịch. Sau đó Đảng và chính phủ đã kịp thời sửa chữa củng cố lại niềm tin trong quần chúng nhân dân. Điều này đã được nhà văn Dương Hướng phản ánh trong chương hai và chương sáu của cuốn tiểu thuyết. Với trách nhiệm của một người cầm bút, nhà văn Dương Hướng đã không né tránh những sai lầm của lịch sử mà nhìn trực diện vào nó để phản ánh nó một cách trung thực hơn. Qua những sai lầm đó phẩm chất, nhân cách của con người được tỏa sáng và con người thấy hôm nay được giá trị của cuộc sống của mình. Có thể coi sự kiện làng Đoài bước vào công cuộc cải cách ruộng đất như là một cái khởi đầu cho cuộc hành trình của những tính cách trong tác phẩm. Từ sự kiện này, các nhân vật bắt đầu có sự va chạm với thời cuộc cũng như cơn lốc của lịch sử. Để rồi từ đó với những cách ứng xử khác nhau, mỗi nhân vật tạo nên cho mình một con đường đi riêng, một số phận riêng biệt. Ba mươi chương còn lại là quá trình phát triển của cốt truyện đi từ phát triển lên tới cao trào với những biến cố dữ dỗi của lịch sử. Trải qua những biến cố đó, tính cách của nhân vật dần dần được định hình và hoàn chỉnh. Đồng thời nhân cách của mỗi nhân vật được khẳng định. Chương cuối với tên gọi “Con đường mới” được coi là kết thúc của tác phẩm. Trong chương cuối tất cả những nhân vật tiếng tăm của Dưới chín tầng trời đều tụ họp tại trung tâm của tác phẩm là làng Đoài trong ngày hội mừng đón danh hiệu của xã – xã Chiến Thắng rồi sau đó hình ảnh đám ma của con người đầy quyền lực Trần Tăng trên con đường “mới mở chạy giữa cáh đồng làng Đoài ra cánh mả Rốt”(24,501). Kết thúc tác phẩm số phận của mỗi nhân vật đều có lời giải đáp theo luật nhân quả. Đồng thời phần kết thúc của tiểu thuyết cũng đã thể hiện rõ quan điểm mang đầy tính nhân văn cũng như cách nhìn của nhà văn Dương Hướng với vấn đề được đưa ra trong tác phẩm. Đó là niềm tin con người, vào sự trường tồn vĩnh hằng của Tình người trong mỗi chúng ta. Chính điều này là hạt nhân chính cơ bản hình thành nên những bi kịch lạc quan trong Dưới chín tầng trời.
Một đặc điểm truyền thống trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Dưới chín tầng trời chính là sự kiện . Có thể nói sự kiện là chất liệu, là đơn vị cơ bản để tạo nên cốt truyện của Dưới chín tầng trời. Đọc Dưới chín tầng trời ta thấy ngồn ngộn những sự kiện ngang dọc vây quanh các số phận của nhân vật. Thông qua những sự kiện, những biến cố, nhân vật bộc lộ tính cách của mình đồng thời hiện dần lên khuân mặt của lịch sử. Ba mươi ba chương của cuốn tiểu thuyết nhưng lại chứa đựng trong mình những sự kiện lớn, những biến cố lớn lao của lịch sử mà chỉ riêng mỗi biến cố cũng có thể làm nên một cuốn tiểu thuyết không kém tầm quy mô. Ta có thể kể đến các sự kiện chính như là: sự kiện cải cách ruộng đất, là quá trình hợp tác hóa ở miền Bắc, chiến tranh giành độc lập ở miền Nam, cuộc chiến tranh biên giới, công cuộc đổi mới của đất nước... và hàng trăm các sự kiện nhỏ khác. Những sự kiện này đều xoay quanh hoặc có ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của những người dân ở làng Đoài. Nó tạo ra sự vinh – nhục, khổ đau – hạnh phúc, ác – thiện, xấu – tốt,... trong mỗi số phận của những con người nơi đây cũng như những người liên quan. Qua những biến cố, những tình tiết, tính cách nhân vật được khẳng định. Sự kiện được coi là một trong những phương tiện chính để nhân vật tự khẳng định mình.
Một yếu tố khác của thi pháp cốt truyện truyền thống trong Dưới chín tầng trời là sự đan xen của nhiều tuyến nhân vật. Trong Dưới chín tầng trời với 500 trang sách nhưng chứa khoảng một trăm nhân vật cả chính và phụ. Với xu hướng tiểu thuyết đang có hiện tượng giảm lược nhân vật trong tác phẩm thì đây là một con số khổng lồ về số lượng nhân vật. Nhìn vào diện mạo tiểu thuyết hôm nay, đa số các tác phẩm chỉ có một hoặc một vài nhân vật chính. Đồng thời đấy cũng chính là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Còn nếu tính cả nhân vật phụ và nhân vật chính thì cũng chỉ đến vài chục là nhiều. Trong khi đó tiểu thuyết của Dương Hướng lại tồn tại quá nhiều nhân vật (khoảng 100 nhân vật cả chính lẫn phụ). Một đặc điểm nữa trong hệ thống nhân vật của Dưới chín tầng trời mà ta dễ nhận ra đó là khó có thể xác định nhân vật nào là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Điều này có lẽ là do hệ quả của việc xây dựng nhân vật thành nhiều tuyến của nhà văn Dương Hướng như tuyến nhân vật người nông dân bám rễ ở làng Đoài: lão Khi, anh Câm, cô Lùn, lão Cảo chăn vịt.. nhân vật đổi đời sau khi dời quê hương: Đào Kinh, mẹ con bà Cháo, nhân vật thương gia: Thương gia Đức Cường, là những người cán bộ cấp cao: Trần Tăng, Thu Cúc, Hoàng Kỳ Trung,... Mỗi nhân vật dù ở những tầng lớp, những giai cấp khác nhau đều hiện lên rất sinh động và mang một tính cách riêng không trộn lẫn. Tuy nhiên những tuyến nhân vật này không tách rời mà thường đan chéo vào nhau và có mối quan hệ rất khăng khít với nhau. Sự biến động của tuyến nhân vật này sẽ kéo theo sự biến đổi của tuyến nhân vật kia và ngược lại. Sự đa dạng và phong phú về nhân vật đã giúp nhà văn phản ánh một cách hiệu quả hơn, đầy đủ hơn về bộ mặt của thời đại.
Sự đồ sộ về nhân vật cũng như tính sự kiện của tác phẩm cũng là một trong những yếu tố đặt nền móng cho tính sử thi của tác phẩm. Bên cạnh yếu tố thời gian (thời gian trong tiểu thuyết diễn ra trong ngót nửa thế kỷ) và một không gian rộng lớn (khắp mọi miền đất nước và cả nước ngoài), là sự tầng tầng lớp lớp của nhân vật với nhiều sự kiện lớn, ta có thể gọi Dưới chín tầng trời là một tác phẩm sử thi. Tính sử thi của Dưới chín tầng trời là sự kết hợp đan cài của sử thi sự kiện và sử thi tâm hồn. Bên cạnh những sự kiện làm nên tính cách của mỗi nhân vật nhà văn Dương Hướng còn khắc họa khá rõ nét mảng tâm hồn trong con người họ qua những lời độc thoại nội tâm hay qua sự đối thoại giữa các nhân vật. Ví dụ ở nhân vật Trần Tăng là lúc ông tâm sự với Tuyết khi ở nhà Hoàng Kỳ Trung, hay sự bừng tỉnh và cảm thấy “tin vào điều gì đó trong cõi hư vô”. Điều này cho thấy trong tâm hồn của Trần Tăng vừa có phần thiện và phần ác, hay nói cách khác là trong ông ta có cả phần con và phần người. Chính sự kết hợp của tính sự kiện với phép biện chứng tâm hồn trong cốt truyện đã tạo nên sức tung hoành và công phá của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời trên văn đàn văn học đương đại Việt Nam.
Nhiều người nói rằng cốt truyện truyền thống dường như đã bị lãng quên trong nền tiểu thuyết hôm nay. Nhưng Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng lại là một minh chứng cho điều ngược lại. Cốt truyện truyền thống vẫn tồn tại bên cạnh đó nó còn được kết hợp với những thi pháp nghệ thuật hiện đại để mở rộng khă năng thích ứng với một môi trường văn chương mới.
3.4.2. Tổ chức sự kiện.
Khi nói đến phần nghệ thuật của Dưới chín tầng trời, trong bài viết “Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời” nhà nghiên cứu phê bình văn học Phong Lê đã viết: “văn xuôi thế kỷ XXI đã có những dấu hiệu thay đổi, vượt ra ngoài những đường ray quen thuộc của tiểu thuyết hiện thực cổ điển, như là một sự phá vỡ hoặc phá bỏ cốt truyện; sự thay thế đại tự sự bằng các tiểu tự sự; kiểu nhân vật tính cách được thay bằng nhân vật biểu tượng, thậm chí là sự thủ tiêu nhân vật, để chỉ còn là ký hiệu, là ngôn ngữ, trong giao thoa, xáo trộn của nhiều ngữ điệu... Dưới chín tầng trời của Dương Hướng, chúng ta không nhận ra những thay đổi theo các dạng thức trên; nhưng không phải vì vậy mà tác phẩm thiếu vắng sự tìm tòi, để làm mới hơn cách viết quen thuộc của mình như trong Bến không chồng”(16). Sự tìm tòi mà nhà nghiên cứu phê bình văn học Phong Lê đề cập đến chính là phương thức tổ chức các sự kiện trong Dưới chín tầng trời. Cốt truyện trong Dưới chín tầng trời vẫn đi theo mô hình truyền thống, nhưng nó không sao chép một cách cứng nhắc mà có sự vận động một cách linh hoạt trong cái khung truyền thống đó. Vẫn là các sự kiện nhưng với sự vận dụng những thi pháp nghệ thuật hiện đại như: nghệ thuật lắp ghép, sự đảo lộn về trật tự cấu trúc thời gian... đã tạo nên những thành hiệu ứng nhất định cho cốt truyện trong Dưới chín tầng trời.
Trong ba mươi ba chương của tiểu thuyết Dưới chín tầng trời các sự kiện không được sắp xếp theo trật tự tuyến tính thời gian như trong mô hình cốt truyện truyền thống mà có sự đảo lộn về mặt tuyến tính trên trục thời gian. Mặt khác, thời gian hiện tại chỉ chiếm một dung lượng nhỏ ¼ số chương của tác phẩm (8/33 chương: gồm các chương 1,2,5,6,30,31,32,32), còn lại 25 chương là thời gian quá khứ. Đầu tiên tác phẩm mở ra ở thời kỳ hiện tại trong hai chương đầu, sau đó câu chuyện lại quay về quá khứ, rồi khi kết thúc truyện thời gian lại quay trở về với thời hiện tại. Cấu trúc về mặt thời gian của tiểu thuyết dường như khép kín theo hình tròn: hiện tại – quá khứ - hiện tại – quá khứ - hiện tại. Cái vòng tròn khép kín về mặt thời gian có lẽ cũng là một phương thức biểu hiện cho quan niệm nhân quả trong tư tưởng của một nhà văn có tâm.
Tuy nhiên, trong cái vòng tròn khép kín đó lại hiện diện sự đan chéo của hai tuyến tuyến thời gian quá khứ khác nhau: tuyến thời gian ở miền Bắc và tuyến thời gian ở miền Nam. Trong hai tuyến thời gian này, thời gian cũng không bước trên một trục thẳng mà có sự gẫy khúc và xáo trộn. Ví dụ trong tuyến thời gian ở miền Nam chương mở đầu (chương 4: Vầng trăng bóng quỷ) là thời gian của chiến tranh, nhưng đến chương tiếp theo chương 7(Tấm lòng cao cả) là những ngày đất nước vừa giành được độc lập(1975), chương 11(Cuộc gặp gỡ bất ngờ) thời gian lại quay về thời kỳ chiến tranh... Như vậy thời gian trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời rất khó nắm bắt. Điều này cũng dễ hiểu khi nhà văn Dương Hướng xây dựng thời gian của tiểu thuyết theo sự lắp ghép của các khối đời, các số phận chứ không phải theo tuyến tính của trục thời gian. Các nhân vật, các khối đời có một số phận riêng dường như độc lập với nhau nhưng lại đan cài vào nhau tạo nên một cấu trúc thời gian đa chiều, đa hướng. Dòng chảy của thời gian trong Dưới chín tầng trời cũng là dòng chảy của các sự kiện mà mỗi nhân vật phải trải nghiệm trong cuộc đời của mình. Cũng chính vì vậy mà sự kiện trong Dưới chín tầng trời không được sắp xếp theo tuyến tính thời gian mà theo những bước đi của nhân vật. Sự gẫy khúc về mặt thời gian trong Dưới chín tầng trời là bước đi của lịch sử. Lịch sử với những thăng trầm của mình, nó không phát triển theo chiều thẳng đứng mà như những đường xoán ốc. Cho nên bên cạnh những sự phát triển, tiến bộ còn tồn tại sự thụt lùi và lạc hậu. Đó chính là góc khuất của lịch sử mà nhà văn Dương Hướng đề cập đến trong Dưới chín tầng trời. Qua những lầm lạc, những thụt lùi của lịch sử chân lý về con người được khẳng định.
Mọi nghệ thuật sinh ra và tồn tại đều nhằm phục vụ cho con người. Mặc dù trong thời đại ngày nay, các nhà văn ngày càng ý thức một cách sâu sắc hơn về tư cách nghệ sỹ của mình nhưng những sáng tạo nghệ thuật của họ bao giờ cũng phải hướng tới công chúng, hướng tới con người. Do đó  tất cả các hình thức nghệ thuật được các nhà văn tìm tòi, sáng tạo cũng không nằm ngoài mục đích “văn học là nhân học” (Gorky). Nhà văn Dương Hướng cũng có quan điểm như thế. Những thi pháp nghệ thuật trong tổ chức, sắp xếp các sự kiện cũng như sự đan chéo của các tuyến thời gian sự kiện trong Dưới chín tầng trời cũng không nằm ngoài mục đích đó – văn học vị nhân sinh.
3.4.3. Sử dụng các chi tiết mang tính biểu tượng.
Bên cạnh những sự kiện trọng đại của lịch sử nhà văn Dương Hướng còn sử dụng nhiều chi tiết mang tính biểu tượng trong Dưới chín tầng trời. Có thể coi đây là một trong những có gắng của nhà văn trên con đường sáng tạo văn học nghệ thuật.
Biểu tượng là một trong những thủ pháp nghệ thuật được phổ biến trong nhiều lĩnh vực: hội họa, kịch, tâm lý học, văn hóa...  Trong Từ điển Tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học Việt Nam, biểu tượng được hiểu “là dấu, là hình ảnh biểu hiện”(91). Theo nhà tâm lý học C.G.Jung thì biểu tượng “là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa biết hay bị che lấp”. Trong văn học biểu tượng cũng được các nhà văn sử dụng một cách thường xuyên khi sáng tạo nghệ thuật bởi tính tính khái quát và sức gợi cao của nó. Biểu tượng văn học thường rất đa nghĩa và được hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau: con vật, đồ vật, hình ảnh, hình tượng... chính là các dạng thức biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm văn học. Từ những biểu tượng này tư tưởng chủ đề được phát lộ. Như vậy biểu tượng là một trở thành một dạng mã hóa của chủ đề tư tưởng trong tác phẩm. Đồng thời qua đó ta cũng nhận diện được phương thức tư duy của nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Trở lại tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, nhà văn Dương Hướng cũng sử dụng khá dày đặc các chi tiết mang tính biểu tượng trong tác phẩm của mình. Đồng thời những biểu tượng này cũng là một phần trong cấu trúc cốt truyện của Dưới chín tầng trời. Những biểu tượng này có thể chính là tên của các chương hoặc là một hình ảnh trong tác phẩm. Ở đây chúng tôi đi vào phân tích một số chi tiết biểu tượng tiêu biểu của tác phẩm như: con tàu đến từ nước Mỹ, người thả đèn giời, Cái sân gạch, con đường mới, và đám tang của Trần Tăng... Qua những chi tiết mang tính biểu tượng trong Dưới chín tầng trời, ta thấy được tinh thần trách nhiệm, cũng như độ chín của nhà văn trên con đường “ đi tìm cái mới vẫn trong khuân hình cổ điển” (16).
Ngay ở đầu cuốn tiểu thuyết, người đọc đã bắt gặp chi tiết mang tính biểu tượng, đó là hình ảnh: Con tàu đến từ nước Mỹ. Có thể nói, con tàu đến từ nước Mỹ là khởi điểm cho mọi sự việc trong Dưới chín tầng trời. Con tàu, nếu trong thực tế nó chỉ là một phương tiện di chuyển của con người thì vào trong Dưới chín tầng trời nó là một mã hóa mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Trước hết, con tàu đến từ nước Mỹ vừa là biểu tượng của hòa bình, vừa là biểu tượng của chiến tranh. Có gì phi lý, mâu thuẫn ở đây không khi ý nghĩa của nó lại đối lập với nhau? Hoàn toàn không. Như đã nói, biểu tượng nghệ thuật thường rất đa nghĩa, đặc biệt là khi nó tồn tại lĩnh vực văn học – nơi mà có thể tồn tại những đối nghịch, những mâu thuẫn trong cùng một hiện tượng.  Quay lại lịch sử Việt Nam ta thấy, những đau thương mất mát, những bi kịch mà con người phải gánh chịu đều là do chiến tranh. Chiến tranh không chỉ làm tàn phá tất cả những gì con người làm ra mà còn làm méo mó, què quặt, thậm chí hủy diệt tâm hồn của con người. Chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc giản dị nhất của những người con gái làng Đông là có được một gia đình nhỏ, được làm mẹ, làm vợ và biến họ thành những người đàn bà không chồng (Bến không chồng). Những bi kịch của biết bao thân phận những con người làng Đoài trong Dưới chín tầng trời cũng bắt nguồn từ chiến tranh. Vậy nguyên nhân của chiến tranh là do đâu? Do lịch sử? Do con người? Ai tạo ra chiến tranh? Những câu hỏi này sẽ được các nhà sử học giải đáp, nhưng có một điều chắc chắn chính đế quốc Mỹ là một trong những nước đã từng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cuộc chiến tranh này đã gây ra bao thiệt hại về người và của cho nhân dân Việt Nam và di chứng của nó còn kéo dài cho đến tận ngày hôm nay. Như vậy con tàu đến từ nước Mỹ cũng chính là biểu tượng của chiến tranh – Mỹ xâm lược Việt Nam. Nó như là một lời nhắc nhở con người về những đau thương, mất mát, những hậu quả mà chiến tranh đã gây ra cho cuộc sống con người. Đồng thời nó như một lời dự báo cho những lỗi lầm của lịch sử. Mặt khác, con tàu đến từ nước Mỹ cũng là biểu tượng của hòa bình. Nó ám chỉ đến thời gian thực tại của tiểu thuyết, đó là vào những năm Mỹ và Việt Nam bình thường hóa mối quan hệ với nhau. Đây cũng là thời kỳ mà các nước trên thế giới đang chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại. Và chính con tàu Star Leo đến từ nước Mỹ sẽ sứ giả hòa bình khi nó là nhịp cầu giúp Nam có một cuộc gặp mặt thân mật với Hall người phi công Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam, giờ là một nhà văn. Như vậy, con tàu chính là cầu nối cho những con người đã từng đứng ở hai chiến tuyến xích lại với nhau và trở thành bạn bè như Nam và Hall, rồi sau này là tướng Hoàng Kỳ Trung và đại tá Đỗ Hiền, chỉ huy trưởng Trung tâm Tâm lý chiến phi trường Đà Nẵng. Không những thế, con tàu còn là biểu tượng cho cuộc hành trình quay về quá khứ của nhân vật trong tiểu tuyết. Quay lại quá khứ để tìm lời giải đáp cho số phận của mỗi con người. Hiện tại chỉ là kết quả, còn quá khứ là nguyên nhân của tất cả các vấn đề. Quay về quá khứ, là con người quay về với chính mình, ngắm nhìn lại mình và chiêm nghiệm lại những gì mình đã từng đi qua. Trong Dưới chín tầng trời, cái hiện tại chỉ là cái kết quả của những gì đã qua. Có lẽ vì thế mà dung lượng của thời gian hiện tại chỉ chiếm một phần nhỏ trong tác phẩm. Còn quá khứ mới là nhân vật chủ chốt, là nguyên nhân tạo nên những số phận con người. Quá khứ hay chính là độ lùi về thời gian của lịch sử mới là lời giải đáp cho cuộc đời của mỗi người dân làng Đoài. Như tại sao Đào Kinh và Đào Thanh Măng và Trần Tăng lại có mối quan hệ vô cùng khăng khít và gắn bó với nhau? Tại sao Đào Kinh lại trở thành một tỷ phú khi mà cái gốc của anh ta chỉ là một cố nông bần cùng... Và những điều này sẽ mãi là những bí mật nếu không sự hiện hữu của quá khứ. Nhìn lại quá khứ cũng là một cách để cho con người ta sống tốt hơn. Như vậy, quay trở lại quá khứ cũng là để giải thích cho hiện tại, và để hướng tới tương lai.
Đọc Dưới chín tầng trời,  người đọc còn ấn tượng với chi tiết người thả đèn giời. Đây cũng là một chi tiết mang tính biểu tượng gây nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Thả đèn giời là một nét đẹp văn hóa dân gian nơi làng quê xưa. Mỗi khi có lễ hội, người xưa thường tổ chức thả đèn trời để cầu mong cho cuộc sống được trường tồn. Đồng thời, thả đèn giời còn mang một ý nghĩa tâm linh là xua đuổi bóng đêm, xua đuổi ma quỷ để cuộc sống của con người được bình yên. Từ một nét đẹp trong văn hóa dân gian, thả đèn giời đi vào tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của nhà văn Dương Hướng trở thành một biểu tượng mang tính khái quát nói về ước vọng của những người dân làng Đoài. Trong Dưới chín tầng trời người tổ chức mở hội đình Đoài và thả đèn giời vào mỗi rằm tháng tám là ông Hoàng Kỳ Bắc “Rằm tháng tám năm nào ông Hoàng Kỳ Bắc cũng phát quà trung thu cho lũ trẻ làng Đoài, nào kẹo lạc bi bòng cam chuối ổi... Ông còn mua cả đèn kéo quân và đèn giời, tối đến thả cho nó bay lên tít trời cao”(24,43). Những ngọn đèn giời đó giống như là linh hồn của mỗi người dân làng Đoài thả lên trời cao mong cho cuộc sống của dân làng được no ấm, yên bình. Và ngọn đèn giời còn là nỗi niềm của một con người  – người thả đèn giời Hoàng Kỳ Bắc. Hoàng Kỳ Bắc là một người đầy tài ba nghĩa khí, sống có tâm có đức thế nhưng lại phải chịu một cái chết đầy oan ức. Ông bị quy là địa chủ và bị xử bắn. Không những thế cơ ngơi bao đời gia tộc ông gây dựng lên nhờ vào công việc trồng và thu gom thuốc lào ở làng đi bán cũng bị xung công. Quá uất ức trước nỗi oan khuất của gia đình và để chứng minh cho nhân cách của gia tộc, bà Hoàng Kỳ đã mổ bụng mình tự sát trong đêm trước khi ông Hoàng Kỳ bị xử bắn. Như vậy, một đời sống trong sạch nhưng lại phải chết một cách đáng thương “không có tấc gỗ chôn mình, phải bó chiếu manh”(24,87). Thật đau xót biết bao, nhưng nỗi oan khuất này ông bà Hoàng Kỳ biết tỏ cùng ai? Ai có thể hiểu cho nỗi đắng cay, khổ nhục mà gia đình ông phải gánh chịu? Ông bà chỉ biết  mong trời đất thấu hiểu cho nỗi lòng của mình. Những ngọn đèn giời sáng lung linh như những vì sao không tắt kia trên bầu trời làng Đoài mỗi đêm phải chăng cũng chính là cuộc đời và tâm hồn của ông bà Hoàng Kỳ? Ta tự hỏi nguyên nhân của cái bi kịch ấy bắt nguồn từ đâu? Là những biến đổi của thời đại, những sai lầm của lịch sử mà những người phải gánh chịu là những người dân vô tội. Nó không chỉ phá tan gia đình Hoàng Kỳ mà sau này nó còn tạo ra biết bao nhiêu bi kịch cho những người dân nơi đây. Nhưng họ không thể chống lại nó mà chỉ biết cầu mong cho cái tai nạn ấy qua mau. Như vậy, chi tiết người thả đèn giời ngoài ý nghĩa là một nét đẹp văn hóa cổ truyền nơi làng quê, nó còn là hình ảnh chuyên trở những ước mơ khát vọng cũng như những nỗi niềm của gia tộc Hoàng Kỳ, của người dân làng Đoài: ước mong có được cuộc sống bình yên.
Có thể nói, nhà văn Dương Hướng rất nặng tình với những làng quê nông thôn Việt Nam bởi khi đọc tác phẩm của ông ta thấy toát lên cái hồn vía của nó. Và bạn đọc cũng thấy dễ hiểu khi trong những tác phẩm của ông có rất nhiều chi tiết có tính biểu tượng về nông thôn Việt Nam. Những chi tiết mang tính biểu tượng này thường rất mộc mạc, gần gũi với những người dân quê nhưng lại có sức khái quát rất cao. Dưới chín tầng trời không nằm ngoài cái phong cách đó. Nếu chi tiết Người thả đèn giời là khát vọng, ước mong của người dân làng  Đoài về cuộc sống ấm no thì Cái sân gạch lại là một chi tiết mang tính khái quát về hình ảnh làng Đoài trong phong trào hợp tác xã.  Cái sân gạch cũng là một hình ảnh rất đỗi quen thuộc của nông thôn Việt. Nó được coi là hình ảnh tượng trưng cho văn hóa làng xã. Vào trong Dưới chín tầng trời, cái sân gạch là một chi tiết mang tính biểu tượng cho hình ảnh làng Đoài trong thời kỳ phát động phong trào ợp tác xã. Có thể nói mô hình hợp tác xã ở làng Đoài cũng giống như hình ảnh một cái sân chung của nhiều nhà. Cái sân là của chung thuộc quyền sở hữu của tất cả mọi người chứ không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ cá nhân đơn lẻ nào. Tất cả mọi người phải có ý thức trách nhiệm chung để giữ gì cho cái sân chung đó luôn sạch sẽ và không bị hư hỏng. Phong trào hợp tác xã ở làng Đoài cũng thế. Người nông dân làng Đoài đang từ kinh tế cá thể, nhà ai người ấy lo giờ tất cả đều chuyển sang tập thể hóa. Tập thể hóa triệt để mọi phương diện: từ ruộng đất đến trâu bò, lợn gà: “Đào Kinh đưa chủ trương tập thể hóa triệt để mọi ngành nghề. Trại lợn tập thể, trại gà tập thể, bò, kho giống tập thể tuốt”.(24,115) Người nông dân làng Đoài phấn khởi vô tư, sáng vác cuốc gia đồng, tối về nhà ngủ khèo không phải lo nghĩ nhiều. Bao nhiêu lo toan của việc đồng áng giờ đã có ban quản trị của Hợp tác xã lo, người dân chỉ đi làm lấy điểm để đến mùa vụ tính điểm và lấy thóc. Có thể nói khi phong trào Hợp tác xã mới được phát động người dân vui mừng và tin vào một tương lai mới “Rồi đây khi kinh tế phát triển thóc lúa nhiều tha hồ ăn uống no nê. Lúc đó sẽ thực hiện chế độ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Lũ trẻ không còn phải trăn trâu cắt cỏ tát nước gàu sòng nhát nhát một nhát hai nữa. Ruộng đã có máy cày máy bừa, nước tưới có máy bơm.”(24,116) Dân làng Đoài khấp khởi mừng thầm khi nhìn thấy cánh đồng trong tay quản lý của Hợp tác xã xanh rợp mượt mà báo hiệu một vụ mùa bội thu. Khi mùa vụ đến, thóc thì nhiều nhưng khi cân đối công điểm mỗi nhà chỉ được một ít thóc không đủ ăn đến vụ sau. Dân làng Đoài bắt đầu hoang mang và rồi họ dần nhận ra những mặt trái trong phong trào Hợp tác xã. Đó là chế độ quan liêu, bao che cho những phần tử “làm thật ăn cháo, làm láo ăn cơm”. Rồi khi máy móc xuống đồng làm việc thay cho con người, người dân thấy khổ hơn bởi chi phí cho máy móc quá nhiều mà người dân chơi dài mà chẳng biết làm gì. Nếu trước không có máy thì người dân còn có bát cơm, đến giờ cháo cũng không có. Những chuồng lợn, chuồng gà tập thể ngày càng xuống cấp... Dân tình ngày càng đói, nhưng xã vẫn được cấp trên trao bằng khen là làm ăn giỏi. Chỉ với hơn mười trang sách nhưng nhà văn Dương Hướng đã manh đến cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về phong trào Hợp tác xã ở nông thôn. Với chế độ quản lý quan liêu bao cấp, phong trào Hợp tác xã đã làm cho đời sống của người nông dân ngày càng khổ hơn. Cái nền móng gốc rễ bao đời của nhà nông dần dần bị phá hủy: người nông dân phải gắn bó với đồng ruộng, phải yêu mến đồng ruộng của mình. Không những thế những nét văn hóa đẹp đẽ trong sinh hoạt bao đời của người nông dân cũng bị phá hủy, mà trong Dưới chín tầng trời đó là hình ảnh bị phá hủy của đình Đoài - ngôi đình được coi là linh hồn của cả làng từ ngàn xưa. Như vậy, phong trào Hợp tác xã nó giống như một cơn bão lớn lướt qua làng Đoài và phá hủy tất cả những gì mà người nông dân đã từng chắt chiu từ bao đời. Với lối làm ăn quan liêu bao cấp, tất cả đều cào bằng không phân biệt tốt xấu đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nông thôn: làng xã tiêu điều, người dân thì đói thế mà hợp tác xã vẫn nhận được cờ thi đua. Thật đau đớn! Như vậy, nhà văn Dương Hướng đã đem đến cho người đọc một bức tranh khái quát về hình ảnh nông thôn Việt, mà cụ thể là làng Đoài thuộc xã Chiến thắng. Những sai lầm trong phong trào Hợp tác đã để lại những vết thương khá sâu trong đời sống của người dân nông thôn. Tuy nhiên ta không vì thế mà mất hết hi vọng bởi thời kỳ quá độ thường là sự lần tìm và con người thì không ngừng đấu tranh với cái xấu, cái lạc hậu để vươn lên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều nàyít nhiều được nhà văn Dương Hướng nhắn gửi khi xây dựng nhân vật Yến Quyên và sau này là hình ảnh con đường mới ở cuối tác phẩm trong Dưới chín tầng trời.
Con đường mới là tên chương cuối cùng của tác phẩm nên nó được coi là một “cái nhìn tổng kết” của nhà văn cho những gì đã đặt ra trong tác phẩm. Đây cũng là một chi tiết có tính biểu tượng cao trong tác phẩm Dưới chín tầng trời. Con đường mới chính là biểu tượng cho một tương lai của làng Đoài, hay đó cũng là tương lai cho nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Qua bao lầm lạc, bao sai lầm trên cuộc hành trình tìm đường, cuối cùng bằng sự cố gắng và ý chí không ngừng vươn lên của mình con người cũng nhận được những thành quả xứng đáng. Con đường mới chính là khởi đầu cho một chặng đường khác với một tương lai khác trong cuộc sống của những người dân làng Đoài. Một tương lai chưa phải đã hết những khó khăn nhưng nó sẽ không còn là những tháng ngày đã qua – những tháng ngày cơ cực, lầm lạc của những năm cải cách ruộng đất, những năm phát động phong trào Hợp tác xã... Trong Dưới chín tầng trời, con đường mới chính là con đường được xây dựng ra cánh mả Rốt, bãi tha ma của làng. Con đường này được xây dựng do lòng hảo tâm của ông Đỗ Hiền – một con người có những lầm lạc, những tội lỗi đối với xóm làng, với quê hương, với đất nước. Sau bao năm lưu lạc nơi đất khách quê người, rồi đến cuối cuộc đời ông Đại tá Đỗ Hiền lại trở về nơi chôn rau cắt rốn góp công sức, tiền của xây dựng lại quê để mong chuộc lại những lỗi lầm, những tội lỗi mà mình đã gây ra. Đây cũng là mong ước chung của những người con do thời cuộc phải bỏ quê ra đi, nay có được cuộc sống tốt hơn quay về mong góp một phần công sức đưa làng xóm thoát khỏi cảnh đói nghèo, xây dựng quê hương giàu đẹp hơn như Đào Kinh, Đào Thanh Măng, mấy mẹ con bà Cháo... Rồi đây, làng Đoài sẽ mọc lên nào bệnh viện, nào trường học, đình Đoài cũng sẽ được xây dựng lại... tất cả như hứa hẹn một tương lai tốt đẹp hơn. Con đường mới chạy thẳng ra cánh đồng mả Rốt còn là hình ảnh mang tính biểu tượng cho sự chôn vùi những lầm lạc của quá khứ. Cái ý niệm này còn được nhà văn khắc họa rõ nét hơn trong một hình ảnh cuối chương và cũng là hình ảnh kết thúc tác phẩm: đám ma của cán bộ cao cấp Trần Tăng. Trong Dưới chín tầng trời, Trần Tăng chính là hiện hình của những sai lầm, mặt trái, góc khuất của lịch sử. Cái chết đột quỵ của Trần Tăng trên con đường mới cũng chính là lời giã từ cho những sai lầm của lịch sử. Và hình ảnh đám tang “tiễn đưa hương hồn đồng chí Trần Tăng về cõi vĩnh hằng. Từng đoàn người, xe, cờ phướn,hoa tang nối nhau đi trên con đường do ông Đỗ Hiền mới mở chạy giữa cánh đồng làng Đoài ra cánh mả Rốt.”(24,501) ở cuối tác phẩm cũng chính là một nhát cắt để dứt khoát giã từ quá khứ. Đây là một kết thúc có hậu mang tính triết lý của đạo Phật “Ác giả ác báo”. Qua kết thúc này cũng thể hiện rõ cái tinh thần nhân văn của nhà văn Dương Hướng.
Là một người trung thành với mô hình truyền thống, có thể nói những biểu tượng trong Dưới chín tầng trời cũng là một trong những tìm tòi và sáng tạo của nhà văn Dương Hướng trong việc làm mới tiểu thuyết của mình. Điều này thể hiện sự chín chắn và những nỗ lực không ngừng trong lao động nghệ thuật của nhà văn.












KẾT LUẬN.

Trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam, tiểu thuyết vẫn được coi là một phương thức quan trọng để phản ánh đời sống xã hội và bản chất của con người. Với sự đổi mới trong tư duy và hình thức, tiểu thuyết đã chứng minh sự thích ứng của mình trong đời sống xã hội hôm nay. Nó không còn bó khung trong mô hình tiểu thuyết truyền thống nữa mà vươn tới những phương thức biểu hiện hiện đại tạo nên sự thay đổi trong kết cấu, cốt truyện, nhân vật... Đồng thời, tiểu thuyết cũng rời xa những sự kiện trọng đại mà đi sâu vào những ngõ ngách của đời sống hàng ngày để khám phá, phản ánh một cách chân thực nhất hiện thực. Chính điều này đã tạo cho tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung một diện mạo mới.
Nhân vật và cốt truyện được coi là hai yếu tố quan trọng nhất trong tác phẩm tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Nếu coi một tác phẩm tiểu thuyết là một ngôi nhà, thì cốt truyện chính là cái khung và nhân vật là nguyên vật liệu, thiếu một trong hai yếu tố đó thì ngôi nhà sẽ không thể hoàn thành. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ không tồn tại một cuốn tiểu thuyết nếu thiếu một trong hai yếu tố trên. Do đó, đối với các nhà tiểu thuyết, sau ý tưởng thì điều đầu tiên họ nghĩ đến là cốt truyện và nhân vật. Thông qua nhân vật và cốt truyện, nhà tiểu thuyết trình bày, diễn giải những quan điểm, tư tưởng của mình về những vấn đề của xã hội. Đồng thời đây cũng là hai lĩnh vực để nhà văn thể nghiệm những tìm tòi, sáng tạo trong nghệ thuật của mình, từ đó đưa đến hiến dâng cho bạn đọc những tác phẩm có giá trị cả về nội dung lẫn phương thức phản ánh.
Dương Hướng là một cây bút xuất hiện trên văn đàn vào những năm cuối của thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế ky XX.Cho đến nay, sau hơn hai mươi năm miệt mài trên con đường văn chương ông đã có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền văn học nước nhà, đặc biệt là tiểu thuyết. Trong bốn cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản thì có hai cuốn (Bến không chồng - 1990; Dưới chín tầng trời – 2007) được độc giả hoan nghênh và đánh giá rất cao. Bến không chồng là tác phẩm đã đánh một một mốc son đỏ trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết Việt, đồng thời đây cũng là tác phẩm ghi dấu ấn nhà văn trên văn đàn. Mới gần đây, cuốn tiểu thuyết Dưới chín tầng trời xuất bản năm 2007, đã được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và đang được dư luận quan tâm. Có thể nói đây chính là phần hai của Bến không chồng. Vẫn cái trung tâm là cái làng Đoài, những con người nơi đây tỏa đi nhiều hướng gắn kết với những số phận trên khắp mọi miền đất nước tạo nên một bức tranh toàn cảnh về một xã hội Việt Nam gần nửa thể kỷ. Tuy vẫn đóng khung trong mô hình truyền thống nhưng nó lại có sức hút ghê gớm đối với độc giả bởi sức nặng nội dung mà nó chuyên chở. Đi sâu vào khám phá những góc khuất của lịch sử, nhà văn muốn đưa đến cho bạn đọc một cái nhìn chân thực hơn về những gì đã qua. Như vậy, những đóng góp của nhà văn Dương Hướng cho sự phát triển của tiểu thuyết hôm nay không phải là cái “chất liệu mới lạ” mà là chính là ở “cách nhìn, cách xem xét hiện thực”(1,426).
Nhân vật và cốt truyện là hai yếu tố tạo nên sức hút cho tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Mặc dù nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nhân vật yếu vẫn theo thi pháp truyền thống và có kết hợp của một số thi pháp hiện đại đã tạo nên một hiệu ứng tốt cho sự bộc lộ của tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Những sự kiện lớn của đất nước được sắp xếp một cách linh hoạt, không theo trật tự cấu trúc thời gian mà theo sự tuôn chảy, chuyển động của các khối đời tạo nên sự uyển chuyển cho tác phẩm. Là một cuốn tiểu thuyết mang khuynh hướng sử thi – tâm hồn nên số lượng nhân vật của tác phẩm rất lớn, tuy nhiên mỗi nhân vật vẫn đảm bảo được những nét độc lập riêng đối với các nhân vật khác. Tính cách nhân vật rất đa dạng có sự đan xen của cả cái tốt lẫn cái xấu làm cho người đọc khó có thể phân loại là nhân vật tích cực hay tiêu cực. Nhưng nhìn chung , dù nhân vật là tội nhân hay là nạn nhân của lịch sử thì họ đều mang trong mình những bi kịch của thời đại. Cái bi kịch đó không mang tính bi lụy, làm cho người ta yếu mền đi mà lại nâng con người lên, giúp con hoàn thiện nhân cách của mình. Có lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu phê bình văn học Bùi Việt Thắng đã gọi bi kịch trong Dưới chín tầng trời là “bi kịch lạc quan”.

Không có nhận xét nào: