4 thg 12, 2010

Cách nhìn của Dương Hướng

Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến

Nếu như tiểu thuyết trước hết là cốt truyện thì tác phẩm này thừa sức hấp dẫn. Vì cốt truyện rất ly kỳ, nhiều tuyến nhân vật quan hệ éo le, số phận ba chìm bảy nổi…, nhiều tuyến hành động diễn ra các miền Trung, Nam, Bắc, có xóm làng và thành phố, có chiến trường, ác liệt ở miền Nam và sinh hoạt nhộn nhạo, rối ren vùng biên giới phía Bắc…
 Với tôi thì tiểu thuyết trước hết là những nhân vật. Tôi sẽ bình phẩm những nhân vật đáng chú ý. Để sự bình phẩm bớt đơn điệu, thỉnh thoảng tôi chêm vào những câu triết lý vặt. Về mặt này, thì Dương Hướng hơn tôi. Anh cũng hay triết lý vặt (chẳng hạn như đoạn luận bàn về sự vĩ đại và tội ác,xem tr16) nhưng đôi khi anh đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư tưởng đáng suy nghĩ.
Chẳng hạn, trong cảnh xã Quyết Thắng quyên góp, nghe tiếng loa xướng danh những nữ thương gia hảo tâm thì trong đám đông có những lời qua tiếng lại.
- Làng mình thế mà oai thật. Toàn những người tài giỏi.
- Giỏi đánh đĩ thì có, mụ Còn thì thầm vào tai cô Lùn…
- Con mụ này rõ bạc, nó đánh đĩ nhưng có lòng, chả hơn cả đời chả ai moi được ở mụ một xu. (xem tr.466).
- Tao nghèo nhưng trong sạch.Vấn đề được bao hàm trong mẩu đối thoại nói trên được sáng tỏ qua lời phán của một nhiêu, xã "lý sự" trong đám đông: "…Những kẻ luôn lên giọng cao đạo hoá ra lại vô tích sự chẳng bao giờ nghĩ đến ai ngoài chăm lo cho bản thân, còn những người mà ta cho là xấu xa hèn mọn lại làm nên mọi chuyện hay ra trò…"(xem tr.467). Đánh giá như thế nào đây: "Đánh đĩ nhưng có lòng" và "trong sạch nhưng chẳng ai mọi được một su", đây là một vấn đề căn bản trong đời sống đạo đức xã hội ta ngày nay, có khi nhiều vị hủ nho "Tây cổ" và "Tầu cổ" qua sự suy ngẫm về vấn đề này may ra thì lột xác được đời sống hệ tư tưởng của chúng ta sẽ đơn giản hơn, trong sáng và minh bạch hơn rất nhiều nếu như chỗ nhấn được đặt vào chỗ đáng nhấn: Có lòng hay không có lòng (người "có lập trường" mà "không có lòng" có khi nguy hiểm và tệ hại hơn người "lập trường không vững" mà " có lòng").
Có một "thời đại" trong lịch sử đương đại Việt Nam (kể từ sau Cách mạng tháng Tám) được nhiều nhân vật trong tiểu thuyết nhắc đến, mỗi người xác định một cách, nhưng mọi người đều thừa nhận sức ép tuyệt đối của nó, sự áp đảo khủng khiếp của nó, giống như định mệnh vậy.
Mây góp cho xã một khoản tiền lớn được hoan hô nhiệt liệt. Trong đám đông liền có lời gièm pha; "Sao bảo có thời nhà nó cũng khốn khó lắm. Nghe nói mấy chị em nó phải đi làm giái bao" (xem tr. 465). Lập tức có lời biện bạch. "Cái thời ấy cả nước khốn khó đâu riêng nhà nó". Đã có người nói "Cái thời ấy cả nước khốn khó…" thì cũng có người nói" cái thời ấy cả nước nói dối…" và vân vân, vân vân… Phải thấy tính chất nghiêm trọng của những hậu quả mà thời ấy để lại.
Hoàng Kỳ Trung, suốt một đời phục vụ trong quân đội lên đến cấp tướng thổ lộ với con trai kinh nghiệm làm sao sống sót được: "..phải nhận biết và chịu đựng cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống" (xem tr. 346).
Để bào chữa cho Trần Tăng, một cán bộ lãnh đạo cao cấp, Tuyến cho rằng "những lỗi lầm to lớn của ông, những trò ma mãnh của ông, những mưu mô toan tính quyền lực của ông cũng chỉ là tai nạn của thời đại mà thôi…, những tai nạn, nó làm méo mó què quặt tâm hồn con người" (xem tr.469).
Sức áp đảo ghê gớm của thời cuộc lại được một người trong đám đông "tố" lên trong bữa tiệc sau buổi gặp mặt đồng hương: "…đã sinh ra trên cõi đời này chẳng thằng nao muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy làm con người ta cứ hèn đi" (xem tr. 467).
Cái "thời" khốn khó ấy, cái "Thời đại" tai quái ấy, cái "thời cuộc" khốn cùng ấy đã được Dương Hướng phác thảo, bao giờ thì những nhà khoa học lập được những hồ sơ chính trị, xã hội học, sử học… cho "Thời ấy"?
Trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời có nhiều nhân vật chính, khó mà nói nhân vật nào là trung tâm. Trong các nhân vật chính đáng chú ý, trước hết phải nói đến Yến Quyên. Chị có dáng dấp thục nữ truyền thống, chồng đi bộ đội biền biệt một mực kiên trinh, chăm lo gia đình, đồng thời luôn luôn sốt sắng với công việc của làng xã. Mặc dù làm dâu trong một gia đình là nạn nhân thảm thương của cải cách ruộng đất, Yến Quyên hăng hái tham gia phòng trào hợp tác, gần như sống chết với hợp tác. Suốt một đời, ở mọi mặt, Yến Quyên không hề có điều gì đáng chê trách. Đây là một nhân vật thánh thiện. Kiểu nhân vật này có chỗ đứng trong tiểu thuyết đương đại không? Nhân vật Yến Quyên thánh thiện có sức thuyết phục không? Độc giả sẽ trả lời câu hỏi này. Có người sẽ phản bác: trên đời này làm gì có người phụ nữ thánh thiện như vậy? Nhưng đây là tiểu thuyết. Thể loại văn học này đã hư cấu bao hình tượng phi lý, cớ sao lại không được hư cấu nhân vật thánh thiện? Miễn là có sức thuýêt phục.
Hoàng Kỳ Nam, con trai Yến Quyên cũng gần thánh thiện như mẹ. Khi cầm súng ngoài mặt trận cũng như khi cầm bút viết báo, nhân vật Nam hầu như không có gì đáng chê trách (có một lần anh bị xử trí oan là do bị hiểu lầm). Tình yêu của Nam với Thương Huyền là tình yêu planonic. Một lần và mãi mãi, một mối tình đắm đuối và bất tận, ngoài nhục cảm. Trong thế giới tiêu dùng và thực dụng ngày nay, tình yêu platonic bị xem là một mê sảng trên đời. Nhân vật trung tâm của Đôn Kihôtê - cuốn tiểu thuyết số một của văn chương thế giới - luôn luôn sống với những mê sảng. Nhân vật Nam hiện đại hơn nhân vật Yến Quyên. Nam có ý thức về cá tính tự do (Marx dùng từ này để xác định nhân cách con người trong xã hội tương lai). Trong cá tính tự do, Marx nhấn mạnh sự tự do trong đó mỗi người phát triển những năng lực nhân tính được chứa đựng trong nhân cách của mình. Do nhu cầu của cá tính tự do, Nam đã có hai quyết định quan trọng: bỏ vợ và bỏ nghề. Vào tuổi năm mươi, Nam ly hôn với Tuyết, người vợ anh chưa bao giờ yêu. Hôn nhân không tình yêu là xiềng xích trói buộc, kìm hãm năng lực nhân tính quan trọng bậc nhất của con người là yêu. Trong hoạt động làm báo, Nam gặp phải một trở ngại lớn: anh phải viết " theo sự sắp đặt của ông tổng biên tập". Nam có đủ cá tính tự do để cảm thấy xấu hổ phải viết theo ý của người khác, và anh bỏ nghề. Tác giả nhấn mạnh cảm hứng "cá tính tự do" quyết liệt đã thúc đẩy hai quyết định quan trọng của Nam: bỏ vợ, anh thành "người tự do một nửa", anh bỏ nghề để "thành người tự do hoàn toàn" (xem tr.412). Tôi có cảm tình với nhân vật Nam. Anh là "một tâm hồn tự do và (có) trách nhiệm". Người lính có tinh thần trách nhiệm đến quên mình khi cầm súng ngoài mặt trận thì cũng là người tình hết lòng chăm sóc cho người yêu bị mất trí, chỉ còn là thân tàn ma dại: đó là Hoàng Kỳ Nam. Tội nghiệm thấy ở xã hội nào cũng vậy, và thời nào cũng vậy, người tử tế và hẳn hoi bao giờ cũng có "tâm hồn tự do và trách nhiệm". Bất cứ hệ tư tưởng nào xa rời cái gốc nhân bản này cũng trở thành lý thuyết suông.
Hoàng Kỳ Trung, chồng Yến Quyên và bố Hoàng Kỳ Nam, là một nhân vật anh hùng. Suốt cuộc đời cầm súng vệ quốc, từ khi tòng quân làm lính đến trở thành sĩ quan cao cấp, Trung bao giờ cũng là một quân nhân gương mẫu. Nhân vật này có những nét đặc sắc vẫn thường được nêu lên ở những người cộng sản kiên cường: "ý chí sắt đá", giữ vững lập trừơng quan điểm đến cùng, nêu gương "tinh thần bất khuất", bị địch tra tấn dã man không khai nửa lời… Trân trọng biểu dương những nét ưu tú của quân nhân Hoàng Kỳ Trung, tác giả không ngần ngại vạch ra những khuyết điểm, những méo mó kỳ quặc ở nhân vật này: "nói câu nào cũng dùng mệnh lệnh" (“có khi đi ngủ với vợ cũng dùng mệnh lệnh") không cho phép bất kỳ ai “nói ý kiến riêng của mình"; lập trường, quan điểm một cách cứng ngắc, chỉ thấy địch và ta, không phải ta thì là địch, khác ta cũng là địch rồi, và thế là ở đâu cũng thấy địch, mỉa mai thay, trong Cải cách ruộng đất, những cốt cán "bố láo" cứ một mực quy bố mẹ Trung là "địa chủ cường hào, việt gian phản động" thì bầy giờ, đến lượt mình, ông Trung sẵn sàng quy ông bà Đức Cường, và Thương Huyền (những người tốt, cảnh ngộ éo le) là "kẻ thù không đội trời chung" Quy kết vội vàng, bừa bãi là bệnh "ấu trí" nhưng nếu không thấy được nguồn gốc của nó thì dễ trở thành bệnh kinh niên. Căn của bệnh này là ở nếp nhìn, nếp nghĩ "bửa đôi thế giới" thành những nửa đối kháng với nhau, phe xã hội chủ nghĩa đối kháng với phe đế quốc chủ nghĩa, giai cấp vô sản đối kháng với giai cấp tư sản…, đến lượt thế giới vô sản lại được bửa đôi có thời là “đệ tam” và đề nhị”, “stanlinixt và trôtkixt”, có thời là” chủ nghĩa Mác Lênin chân chính” và “chủ nghĩa xét lại” và vân vân, vân vân… thực ra những mặt đối kháng chỉ là những cực được trừu xuất để lý thuyết hoá, giữa hai cực là vô vàn dòng chảy ngược xuôi, qua lại, hoà trộn… Sự sống thực tại của nhân loại là ở những dòng chảy chứ không phải ở những cực đối kháng trừu tượng…Thói xấu quy kết vô tội vạ và những lề thói kỳ quặc khác của ông Trung có một thời được cánh trẻ gọi là “bôn” (họ rất hóm khi đặt ra từ này, họ trả lại từ bôn – sơ – vích cho Đảng Cộng sẳn Liên Xô (b), dùng từ “bôn” Việt hoá để giễu những cái ẩm ương, cực đoan vô lối của những đảng viên làm khổ và hành họ). Với những nét “bôn” ở nhân vật Trung dễ hình dung ông là một người quá sơ đẳng, khờ khạo, thậm chí "ngu si". Với sự tinh tế và sâu sắc của một tiểu thuyết gia già giặn, tác giả phát hiện một Hoàng Kỳ Trung khác ẩn sau Hoàng Kỳ Trung "bôn". Trung sớm thấy và luôn luôn thấy những mặt trái của cách mạng. Cách mạng lớn lao và hào hùng, nhưng mặt trái của nó cũng vô cùng khủng khiếp. Trung sớm có một cách ứng xử trước bộ mặt hết sức phức tạp của cách mạng. Những năm tuổi thiếu niên, trong thời gian cải cách, Trung chứng kiến những thảm cảnh của gia đình mình và thể nghiệm trên bản thân mình sự lăng nhục độc ác. Trung. "nuốt hận trong lòng", anh đi bộ đội: "thời thế đổi thay", "không đi theo cách mạng" thì cũng bị "lịch sử nghiền nát"; "những lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống" Trung không phải là không thấy, nhưng cách xử thế của anh là "phải chịu đựng". Trung thấy hết những tai nạn của phong trào hợp tác hoá: nó "như một cơn lũ…cuốn phăng đi mọi thứ của nhà nông đã tích cóp từ bao đời" (xem tr.346), nhưng anh cũng thấy "lao ra chống đỡ với cơn lũ làm sao mà chống nổi, thiếu gì những kẻ đã "bị nhừ đòn"…Như vậy Trung "bôn" đâu có khù khờ, ông thấy cả và hiểu hết…Chẳng những thế, ông còn có một "minh triết" để ứng xử trước thời thế, thời cuộc…Minh triết của ông được tóm lại trong một câu đã trở thành châm ngôn : "Gặp thời thế thế thời phải thế". "Phải thế" là thế nào vậy ? là phải "nuốt hận". Phải "chịu đựng". Không "chống chọi" ("với cơn lũ"). Hoặc nói như Lão tử, phải có "cái dũng (biểu lộ) ở sự không dám". Lão tử có nói đến hai cách biểu lộ của dũng:
Dũng [biểu lộ] ở sự dám thì chết (Dũng ư cảm tắc sát).
Dũng [biểu lộ] ở sự không dám thì sống (Dũng ư bất cảm tắc hoạt) (xem Đạo đức kinh, ch.73).
Ông Trung đã "không dám" chống chọi những "cơn lũ" và ông đã "sống xót". Minh triết của ông là "chỗ đứng vững chắc" của ông để giữ cho "cơ ngơi, gia tộc" của ông khỏi tan tành. Minh triết của ông đã được triết gia Francois Jullien diễn đạt nôm ra như sau: "…Nếu ngày hôm nay chẳng có gì thuận lợi cho tôi thì tôi thà chờ đợi còn hơn là đối mặt một tình thế trái khoáy và bị vỡ mặt húc vào đấy - làm như vậy hẳn là đẹp đấy, thậm chí còn anh hùng nữa, nhưng ít hiệu quả" (1). Lãu tử so sánh: "…dám thì chết, "không dám thì sống". Hiểu như thế nào đây ý kiến này của Lão tử ? Phải chăng ông có ý chê bai "cái dũng [biểu lộ] ở sự dám" (thì chết) và thiên về "cái dũng [biểu lộ] ở sự không dám"(thì sống) ? Cần tìm hiểu câu tiếp theo trong ch.73: "Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại ". Tôi tham khảo ba cách hiểu câu này của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Michael Lafargue.Tôi chọn học giả thứ ba.Lafargue đã hiểu câu này như sau: cả hai cái (dũng) này "có khi có lợi,có khi có hại''(2)(cách hiểu của Nguyến Hiến Lê: "một cái được lợi, một cái bị hại" (3). Như vậy, "cái dũng của sự dám" (thì chết) không nhất thiết chỉ "có hại" mà có khi "có lợi" và "cái dũng của sự không dám" (thì sống) đầu phải chỉ "có lợi" cũng có khi "có hại" đấy. "Nuốt hận", "chịu đựng", không dám (hoặc không dại gì mà) "chống" với "chọi" … đó là minh triết của ông Trung va thực sự đó là minh triết. Nhưng hình như ông quá đắc ý với mình triết này, thiếu sự sâu sắc của Lão tử.
Nhân vật Thu Cúc có một lý lịch đẹp: xuất thân thành phần cơ bản (con một người vú nuôi đi ở cho ông bà Đức Cường, nhà tư sản ở Đà Nẵng), quá trình công tác liên tục (hoạt động nội thành, lên rừng, trở về thành phố làm quân quản). Thu Cúc là một nhân vật có hậu: thời kỳ ở rừng "mặt sắt da chỉ", về sau "trẻ và đẹp hẳn lên"; sau năm 1975, ở tuổi 39, 40, vẫn lấy được chồng, làm đến chức phó chủ tịch thành phố, có xe riêng "Toyota màu trắng", có biệt thự Hoa cúc vàng "bốn mùa hoa nở, bốn mùa có bồn nước với những vòi nước trắng bạc phun lên cao một màu sương khói", và sống trong biệt thự này, mẹ của Thu Cúc, người vú nuôi xưa kia cũng được nể trọng như một "mẫu hậu". Ngược lại, sau năm 1975, nhà chủ tức là gia đình ông bà Đức Cường thì tan hoang, lụn bại thảm hại, gần như bị "tiêu diệt": ông Đức Cường tự tử, bà chết theo, con trai (nhân vật Đức Thịnh) nổi đoá đâm chém trong một cơn điên khùng bị bắt và tự sát trong ngục, con gái (nhân vật Thương Huyền) bị mất trí, thân tàn ma dại, tài sản tan hoang, dinh thự Đức Cường biến thành dinh thự Hoa cúc vàng….Ông Đức Cường là một doanh nhân yêu nước, ông đã làm tất cả để bày tỏ nhiệt tình, thiện chí với chính quyền mới, đem hai nhà máy hiến cho thành phố, thúc con gái đương ẵm con thơ dại đi vùng kinh tế mới để gương mẫu chấp hành chính sách, đem toà nhà chính của dinh thự Đức Cường biếu bà Thu Cúc, phó Ban Quân quản…; ông không hề chống đối, tuyệt không dám " chống chọi", không phản tuyên truyền, không di tản, vượt biên…Vậy mà ông vẫn chết (theo nghĩa đen), cơ nghiệp tan tành, gia đình tan nát. Những người đọc chương 73 Đạo đức kinh vội vàng, chỉ nhớ câu: "….dám thì chết", "…không dám thì sống" chắc sẽ kêu lên: sai rồi, Lão tử ơi!.
Với một bản lý lịch đẹp và nặng ký, với chức vụ phó chủ tịch, chủ tịch thành phố, Thu Cúc đương nhiên là một nhân vật đáng nể trong. Tác giả quan tâm đến "con người bên trong" kín đáo, khó nắm bắt của Thu Cúc. Nó biểu hiện ở sắc điệu ("lúc nào cũng khó đăm đăm", mặt cứ "đanh lại"), đặc biệt là ở lời nói, cách nói, giọng nói: lời nói lúc nào cũng vanh vách "lập trường", "quan điểm"; lúc nào cũng lý lẽ, những lý lẽ "tàn nhẫn", "cạn tàu ráo máng" đưa ra để quy kết, trói buộc người ta, và chỉ có lỹ lẽ, tuyệt không có một "giọt tình" (trong khi tình là cái mà người dân chờ đợi ở những cán bộ cách mạng đến giải phóng cho họ); Thu Cúc có cách nói cứ muốn "át" người đối thoại với mình, muốn đưa ra lời buộc tối cuối cùng "như quan toà"; giọng nói thì có lúc cứ như "rít lên", có lúc nghe cảm thấy "nhức nhối". "lành lạnh", ngay cả khi "ngọt ngào" thì cũng cảm thấy "rờn rợn"… Nam là người có điều kiện hơn cả để hiểu con người Thu Cúc, họ đối đầu nhau trước một vấn đề: số phận của Thương Huyền. Nam một lòng thương yêu Thương Huyền còn Thu Cúc thì bằng mọi giá muốn đẩy mẹ con Thương Huyền (đi "kinh tế mới", đi sang Mỹ, đi nhà thương điên…) Cuối cùng Nam đã "linh cảm chị Thu Cúc đã cố tình làm tan nát cả gia đình Thương Huyền" (xem tr.412) Vì cớ gì? Vậy lập trường giai cấp? Hay là muốn hợp pháp hoá và hoàn thành việc chiếm đoạt biệt thự của ông Đức Cường mà Thương Huyền là người thừa kế hợp pháp duy nhất? "Sông sâu còn có kẻ dò…" Ngoài đời, những người như Thu Cúc là nhân vật tích cực hay nhân vật tiêu cực.
Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Nam là những nhân vật ít nhiều thánh thiện, ở họ tuyệt nhiên không có tính chất "điếm", tính chất "lưu manh". Tiểu thuyết của Dương Hướng không thiếu những người có tính chất ít nhiều lưu manh, ít nhiều điếm, trong số đó Trần Tăng, Đào Kinh, Măng là những nhân vật đáng chú ý.
Đào Kinh có những nét giống với Xuân tóc đỏ: xuất thân bình dân "cầu bơ cầu bất", văn hoá i - tờ.., và cuối cùng nếu như Xuân tóc đỏ được suy tôn "anh hùng cứu quốc", tặng thưởng những bội tình cao quý nhất thì Đào Kinh được báo chí ca ngợi là "một tỉ phú hào hoa", "một anh hùng hào hiệp", "một nhân vật trung tâm của thời đại"…Nhưng Đào Kinh không phải là Xuân tóc đỏ. Xuân "vào đời" bằng việc nhặt bóng sân quần vợt, từ đó được ngẫu nhiên đẩy từ cơ may này đến cơ may nọ, trở thành "sinh viên y khoa" rởm, thi sĩ rởm", "trí thức thượng lưu rởm" và cuối cùng là "anh hùng cứu quốc rởm". Đào Kinh than gia Cải cách, rồi bỏ làng ra đi, xoay xở đủ nghề, "đi đến tận cùng của sự khổ cực để rồi tự đứng dậy vươn lên", cuối cùng trở thành một danh nhân đích thực. Một doanh nhân không từ một thủ đoạn lưu manh nào vì quá hiểu trên thương trường "anh không thịt nó thì nó cũng thịt anh" . Một doanh nhân nắm được bí quyết thành công trong kinh doanh ở cái xứ này là "phải khai thác triệt để quyền lực", phải "khôn khéo biết gần gũi những người có chức, có quyền" (xem tr.76) (một truyền thống thâm căn cố đế của những xứ phương Đông là xã hội được cai trị bằng quyền lực, chứ không phải bằng pháp luật). Một doanh nhân tuy trình độ i - tờ những biết trả tiền, nên có cả "một đội ngũ trí thức thứ thiệt… tài giỏi thực sự chứ không phải loại ngu dốt khua môi múa mép.." và "một đội ngũ cửu vạn tinh nhuệ thông thạo trong nhiều lĩnh vực…võ nghệ cao cường…". Bản lĩnh và trí tuệ của Đào Kinh có hiệu quả hơn rất nhiều so với những vị giám đốc xí nghiệp và công ty “bao cấp” hàng tháng “giả vờ” trả lương cho nhữn công nhân, viên chức “giả vờ”lao động dưới sự lãnh đạo của họ...KHÁC VỚI Xuân tóc đỏ là một kẻ không có gốc, Đào Kinh tuy “cầu bơ cầu bất” cũng có một gốc gác quê hương, đó là làng Đoài, nơi anh đã lớn lên, trưởng thành, lấy vợ đẻ con và “khởi nghiệp’. Đào Kinh hai lần được cảm nhận như là “anh hùng”. Buổi xử bắn “địa chủ phản động” Hoàng Kỳ Bắc, người đã cưu mang mẹ con Kinh, Đào Kinh cầm súng đứng ở bệ bắn, "trông như một vị anh hùng". Lần thứ hai, trong Hội nghị trí thức của Tỉnh, với tư cách là "nhà tỉ phú giầu nhất tỉnh", là người "đã tạo nên những điều kỳ diệu trong kinh tế", Đào Kinh đăng đàn, nói vo, nói rất hay, hùng hồn, đàng hoàng... Diễn giải được đón nhận như một "người anh hùng hào hiệp". Đứng giữa hội trường của tỉnh, Đào Kinh công bố dự án đầu tư xây dựng cho tỉnh một bệnh viện hiện đại, một trường học mẫu, một khu vực vui chơi giải trí..Mô - típ bỏ làng ra đi lập nghiệp, đoạn tuyệt với nghèo nàn và khổ nhục cũng như mô - típ công thành danh toại trở về với làng và quê hương thường xuyên trở đi lại trong tiểu thuyết của Dương Hướng. Đọc nhân vật Đào Kinh không khỏi liên tưởng đến Sài, nhân vật trung tâm trong Thời xa vắng của Lê Lựu cũng là "một người nhà quê vĩ đại". Từ một đứa bé nông thôn dường như sinh ra để làm mướn, Sài bước một mạch đến đại học và trên đại học, Sài làm tròn nghĩa vụ quân nhân trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đứng trong hàng ngũ những người cộng sản... Bình phẩm tiến trình của nhân vật này, một nhà phê bình đã viết: "Sài đã bước những bước đi khổng lồ của dân tộc và giai cấp" (4). Con đường đi của Đào Kinh hoàn toàn khác, không hề biết đại học và trên đại học, không phấn đấu, rèn luyện trong những tổ chức cách mạng, trường học của anh là nhà giam, là chợ búa, là những nơi phải bạo ngược, ma quỷ để giành giật miếng ăn..., tuy vậy, Đào Kinh cũng đã tiến bứơc khá xa: từ một đứa trẻ "con hoang", sống "cầu bơ cầu bất"...Đào Kinh trở thành một "tỉ phú", "một nhân vật trung tâm của thời đại" làm nên "những điều kỳ diệu trong kinh tế"... Sài đã có những cống hiến cho Sự nghiệp vinh quang, Đào kinh cuối cùng có những đóng góp không nhỏ được làng nước đón nhận trong vinh quang và hoan kỷ. Con đường của Đào Kinh thực ra chỉ là một trong vô vàn con đường mà công cuộc Đổi mới cộng hưởng với xa xôi tiếng vọng của thế kỷ 21 đương toàn cầu hoá và hiện đại hoá một cách điên cuồng mở ra cho mọi tầng lớp xã hội, cho mỗi người và thành công hay đạt vận của mỗi người không chỉ do vận may và ý chí làm giàu, nó phụ thuộc khá nhiều vào sự bảo kê và tiếp tay của những kẻ có quyền, có chức (không có sự ngấm ngầm bao che của thế lực Trần Tăng và Măng, còn lâu Đào Kinh mới "phất lên như diều", xem tr.395).
Măng là con đẻ của Trần Tăng, một cán bộ cao cấp, Đào Kinh chỉ là bố hờ. Con đường thăng tiến của Măng còn "ác hơn nhiều so với Đào Kinh: từ một người con gái "chân đất mắt toét" làng Đoài, Măng trở thành "người đàn bà giàu nhất nước Nam". Với tính cách gian ngoan và táo tợn Măng biết dựa vào quyền lực để kiếm tiền và dùng tiền mua quyền lực. Măng sẵn sàng "hư hỏng" để mua chuộc bất cứ ai. Theo cách nói người làng Đoài, Măng biết "kinh doanh" cái mình có để có cái mình muốn. Măng nổi tiếng là một "con điếm chính trị". Theo lời đồn đại, Măng có thể "thiết kế cho một thằng ngu dốt nhảy phóc một phát vào ghế này ghế nọ, và cũng sẵn sàng hạ bê tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù hoặc về vườn..." (xem tr.393). Tưởng chừng như tác giả muốn đưa ra một nhân vật "ba đầu, sáu tai.." Nhưng không phải vậy. Tác giả nhận ra ở người đàn bà phũ phàng và ngoa ngoắt này vẫn còn "chất chân quê" và "tốt bụng". Và ê chề với sự "sa đoạ do đồng tiền và quyền uy chế ngự" Măng cũng có những khát vọng hạnh phúc tình người giản dị. Như vậy, "con điếm chính trị" Măng vẫn "tốt bụng", "chân quê" và người đàn bà sa đoạ này không phải không có "những khát vọng hạnh phúc tình người giản dị". Con người sao lại phức tạp như vậy ? Con người vốn phức tạp như vậy.
Trên đại thể, Trần Tăng là một nhân vật tiêu cực. Điều đáng chú ý là nhân vật tiêu cực này, bê tha trong lối sống, đạo đức nhếch nhác lại là một cán bộ cao cấp. "Chiến công" của Trần Tăng trong Cải cách ruộng đất là xử bắn Hoàng Kỳ Bắc, một doanh nhân yêu nước bị quy oan (bà vợ sau đó chết theo), Trần Tăng phá tan gia tộc Hoàng Kỳ đồng thời phá tan đình Đông, chùa Đoài...; với những sai lầm trong phong trào hợp tác hoá, Trần Tăng "đã biến người nông dân cần cù thành lũ lười nhác làm ăn dối trá, phá tan nền móng gốc rễ làng quê, để dân tình đói rách phải bỏ làng mà đi" (tr.470). Sau đây là lời của Tuyết, một người phụ nữ thông minh, tỉnh táo, hâm mộ Trần Tăng và yêu ông chân tình:"...Ngẫm lại từ cái thời ông còn làm chủ tịch huyện, rồi lên tỉnh, lên trung ương tới giờ ông chẳng làm được gì tốt đẹp cho miền đất này. Cái dự án điên rồ của ông phải trả giá quá đắt bằng mồ hôi công sức của hàng vạn con người chỉ vì sự ngu dốt, cộng với sự hứng chí háo danh của ông..." (tr.472).
Với bút pháp biếm hoạ, những nhân vật như Trần Tăng dễ bị biến thành "ác quỷ": quỷ dâm dục, quỷ quan liêu, quỷ tham ô...Không ít độc giả chờ đợi Trần Tăng bị bôi bác thành ác quỷ thì mới hả hê. Dương Hướng đã không biếm hoá nhân vật của mình. Con người Trần Tăng không phải chỉ có những mặt tiêu cực: "Trần Tăng là thủ phạm gây ra bao điều oan trái, nhưng chính Trần Tăng cũng là người gửi gắm tâm lực lớn hơn cả cho mảnh đất và con người làng Đoài này" (tr.228). Trong những nét "cá tính vượt trội", "trong dòng máu Trần Tăng" ngoài "láu cá", "lưu manh", còn có "tài ba", "tính năng động" và hứng "đa tinh". Thói "mê gái" đã ăn vào "máu Trần Tăng". Chỉ riêng ở làng Đoài, Trần Tăng đã dính dấp với ba người đàn bà: tìm mọi cách quyến rũ Yến Quyên, vợ bộ đội; tằng tịu với Cam, vợ một cốt cán chí cốt với mình trong Cải cách; bắt bồ với Tuyết, vợ bộ đội. Chừng ấy "thông tin" đủ để một cán bộ tổ chức viết hai chữ "hủ hoá" trùm lên lý lịch của Trần Tăng và một nhà văn viết "bôi bác" (hiểu theo nhiều nghĩa) biến nhân vật này thành một "quỷ dâm dục", "vô luân". Dương Hướng có một cách nhìn khác: "cả ba người đàn bà làng Đoài đã tạo nên tính cách Trần Tăng thâm trầm mà dữ dội, đắm đuối và si mê" (tr.228). Riêng trong quan hệ giữa Trần Tăng và Tuyết chẳng hạn, quan hệ "nam, nữ bất chính thực sự là thế nào vậy? Tuyết bị người chồng bộ đội chê. Trong hoàn cảnh và tâm trạng ấy, Tuyết gặp Trần Tăng. Đây là lời của Tuyết: "...tôi nhận ra mình tự nguyện hiến dâng cho ông ngày ấy cũng bởi tôi ngưỡng vọng ông thực sự. Ông có một uy quyền mà mọi người không có. Ông có một thứ hào quang toả sáng làm tôi chói loà. Thực lòng một thời tôi cũng đắm say kiêu hãnh được gần ông. Ông đã cho tôi những giây phút cuồng nhiệt mà Hoàng Kỳ Nam chồng tôi không có . Ông đã phát sáng con đường công danh sự nghiệp tôi có được ngày hôm nay. Tôi biết rõ nếu không hiến dâng đời mình cho ông thì tôi cũng chỉ là con đàn bà chân đất lội ruộng làm dâu thuần tuý gia tộc Hoàng Ký đến già..." (tr468). Rất có thể ban đầu Trần Tăng đến với Tuyết bằng ham muốn xác thịt, rồi gần gũi Tuyết ông có “tình cảm yêu quý...muốn Tuyết sau này trở thành người đàn bà mạnh mẽ, có trình độ học vấn và có cả quyền lực..." (tr.226), và "bao kinh nghiệm thu lượm được trong những năm tháng qua", ông "muốn truyền lại cho Tuyết, tin ở người con gái làng Đoài đầy tham vọng này sẽ biết cách vươn lên mạnh mẽ" ( tr.228). Qua hệ nam, nữ giữa Trần Tăng và Tuyết là như vậy, không thể đem gói gọn nó trong một từ "hủ hoá", càng không thể đem cái từ "ô nhục" này để sổ toẹt cả Trần Tăng và Tuyết. Cách nhìn của Dương Hướng là nhận ra và trân trọng những gì tốt đẹp nảy sinh trong quan hệ "bất chính" này. Đây là cách nhìn truyền thống của phương Đông; thấy Dương trong Âm, cái Sống trong cái Chết cái Dũng trong cái Hèn, Phúc trong Hoạ, Thiện trong Ác, Tích cực trong Tiêu cực.Đến đây tạm dừng triết lý vặt, trở về với tác phẩm, tác giả. Trong Dưới chín tầng trời, Dương Hướng có thiện cảm với những nhân vật thánh thiện và dường như không có ác cảm với bất kỳ nhân vật nào. Ngay đối với Trần Tăng, sau khi nhân vật này bị đột tử, tang lễ được tổ chức trọng thể, ông được chôn cất ngay trên đất làng Đoài, vùng đất ông ký thác "nhiều tâm lực hơn cả"...Táng địa đặt đúng theo tâm nguyện của Trần Tăng là tiếng a-men nghĩa tận của tác giả: "ông ấy chết rồi, hãy cầu nguyện cho ông ấy". Tiếng a-men này càng thanh cao vì tác giả không hề có một chút ảo tưởng nào về Trần Tăng. Tiểu thuyết Dưới chín tầng trời kết thúc bằng chương CON ĐƯỜNG MỚI. Đây là con đường dẫn tới cánh mả Rốt, bãi tha ma của làng. Con đường mới được xây dựng do hảo tâm của ông Đỗ Hiền, một Việt Kiều mới hồi hương. Trần Tăng bị đột quỵ được đặt lên một chiếc xe lăn và những người đến cấp cứu đẩy chiếc xe "chạy trên con đường Đỗ Hiền mới mở". và kết thúc chương cuối của tác phẩm là hình ảnh đám tang "tiễn đưa hương hồn Trần Tăng về cõi vĩnh hằng": "từng đoàn người, xe, cờ phướn, hoa tang nói nhau đi trên con đường do ông Đỗ Hiền mới mở chạy giữa cánh đồng làng Đoài ra cánh mả Rốt". Dương Hướng muốn tạo ra biểu tượng gì đây? Tôi đoán chừng biểu tượng "con đường mới" hàm nhiều ý nghĩa. Tôi thông cảm với sự thành tâm của tác giả về những ý nghĩa ông muốn gửi gắm vào biểu tượng. Nhưng trong tác phẩm của Dương Hướng, một cuốn tiểu thuyết ngồn ngộn sức sống và đời sống, nóng hổi những tư tưởng của thời đại và những vấn đề thời sự của đất nước, biểu tượng "con đường mới" là một biểu tượng vặt không hơn, không kém.
06/15,2008 Posted to Bạn bè viết về Dương Hướng

Không có nhận xét nào: