27 thg 11, 2010

Luận văn của Minh Huyền

   Trân trọng giới thiệu hai luận văn của hai bạn Minh Huyền, và Phạm Nguyên Giang theo yêu cầu của một số sinh viên, học viên cao học, thạc sĩ, tiến sỹ văn học có nhu cầu tham khảo nghiên cứu cần tài liệu, các bài viết về các tác phẩm của Dương Hướng.

NỘI DUNG
Chương 1
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG
1.1 Cái nhìn nghệ thuật của Dương Hướng
      Trong hoạt động văn học, hiện thực đời sống là tiền đề, là cái được phản ánh, nhưng việc lựa chọn và tổ chức sự phản ánh như thế nào lại do cái nhìn nghệ thuật của tác giả quy định. Thế giới quan cùng với vốn sống, trình độ văn hoá, năng khiếu nghệ sĩ và cá tính của tác giả là những nhân tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật về cuộc sống và con người của một nhà văn. Thông qua cái nhìn của nhà văn, hiện thực cuộc sống trở thành thế giới nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không đồng nhất với cuộc sống, nó là sản phẩm tinh thần của nhà văn, thể hiện quan điểm, cái nhìn mang tính chủ quan của người sáng tác, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
      Theo Trần Đình Sử, cái nhìn nghệ thuật “là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người - nó có thể xâm nhập vào sự vật, phát hiện đặc điểm của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật. Do đó, cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật” [21, tr.140]. Ông cho rằng: “Nghệ thuật không thể thiếu cái nhìn” [21, tr.140], vì như Khrapchenco từng nói: “Chân lý cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở những người nghệ sĩ thực thụ”, hay M. Proust cũng phát biểu: “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Từ đây, có thể nhận thấy thái độ, cách nhìn nhận của chủ thể sáng tạo đối với cuộc sống và con người quyết định thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của anh ta. Mỗi một người nghệ sĩ sẽ tạo cho mình một thế giới nghệ thuật riêng từ chính chất liệu cuộc sống bởi vì cái nhìn của họ về cuộc sống và con người không giống nhau.
      Cái nhìn nghệ thuật không phải là một hành động nhìn, nó là điểm xuất phát giúp chúng ta hiểu được thế giới nghệ thuật của nhà văn và được lý giải trong quá trình nghiên cứu tác phẩm của một tác giả. Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu sản phẩm tinh thần của một nhà văn, phải tiến hành từ việc tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật của anh ta. Vậy, chúng ta thấy điều gì qua cái nhìn nghệ thuật của Dương Hướng?

1.1.1 Cái nhìn thẳng thắn, trực diện về cuộc sống
      Mỗi nhà văn có một cái nhìn nghệ thuật riêng về cuộc sống, với Dương Hướng thì đó là cái nhìn thẳng thắn, trực diện với chính cuộc sống đã và đang xảy ra ngoài kia, một cuộc sống gắn liền với lịch sử dân tộc. Dám đối diện cuộc sống với muôn màu tốt xấu, trắng đen lẫn lộn của nó không phải bất cứ người cầm bút nào cũng dễ dàng làm được.
      Dương Hướng qua các tác phẩm của mình đã cho thấy một cái nhìn hiện thực, chân thật về cuộc sống và con người. Ông từng phát biểu về quan niệm sáng tác của mình: “Tôi luôn tâm niệm phải viết sao cho thật” [27]. “Thật” ở đây phải chăng là thái độ khách quan, không bị những tư tưởng định sẵn làm méo mó hiện thực? Viết cho “thật” nghĩa là phải phản ánh được các mặt, các yếu tố, các quan hệ của cuộc sống cho dù nghiệt ngã nhất. Như vậy, có thể thấy cái nhìn của Dương Hướng về cuộc sống đối lập với cái nhìn sử thi, mang tính minh hoạ cho những gì có sẵn trước đây trong văn học. Nó cho thấy tính dân chủ trong cái nhìn của Dương Hướng.
      Làm rõ hơn điều này, trong bài phỏng vấn “Tác giả Bến không chồng trở lại” của tác giả Như Quỳnh, Dương Hướng cũng tâm sự: “Tôi luôn cố đặt vấn đề một cách thẳng thắn, trực diện, không né tránh hiện thực, cho dù là một hiện thực nghiệt ngã nhất... Quan trọng là tấm lòng người cầm bút gửi vào đâu” [20]. Văn học bao giờ cũng đòi hỏi phải có sự sáng tạo, như Lênin từng nhắc nhở khi trao đổi với hoạ sĩ Maraham: “Nghệ sĩ cần độc đáo”, mà sáng tạo thì cần phải có hư cấu, tưởng tượng, tuy nhiên, thế giới nghệ thuật không nên, không thể và không phải là những hiện tượng xuyên tạc, “né tránh hiện thực”. Trái lại, nó phải nhìn thẳng vào những vấn đề cuộc sống đặt ra dù là gai góc nhất.
      Quan niệm của Dương Hướng xuất hiện trong thời kỳ đổi mới, khi dân tộc Việt Nam mới được giải phóng khỏi những trói buộc của lễ giáo phong kiến, xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, chiến tranh với đế quốc, và đang tiến hành khôi phục, cải cách kinh tế, đưa đất nước đi lên. Vì thế, người dân đã trở thành những người tự do, có quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Nhưng nhu cầu cá nhân của con người là vô tận dẫn đến đời sống xã hội trở nên phức tạp. Chính lúc ấy, quan niệm của Dương Hướng đã giúp con người “cân, đong, đo đếm” được những gì là cần thiết trong cuộc sống của họ, đáp ứng đúng khẩu hiệu của Trung ương bấy giờ: “nhìn thẳng vào sự thật”.
      Tóm lại, cái nhìn thẳng thắn, trực diện của Dương Hướng về cuộc sống là cái nhìn có tính chất tiểu thuyết, cái nhìn trong sự vận động, thăng trầm của lịch sử xã hội. Phải chăng vì lẽ đó mà Dương Hướng chủ yếu sáng tác về tiểu thuyết và thành công nhất ở mảng này? Mặt khác, cũng chính từ cái nhìn đó, chúng ta thấy được sự giàu có về vốn sống, vốn hiểu biết của nhà văn. Bằng cái nhìn nghệ thuật ấy, Dương Hướng đã cho ra đời những “đứa con tinh thần” đậm chất văn xuôi, đời thường, không thi vị hoá cuộc sống với những “sự thật” - dù phũ phàng nhất - mà người dân quê ông nói riêng, dân tộc ta nói chung đã và đang đối mặt.
1.1.2 Quan niệm sát thực, biện chứng về con người
       Trước hết, theo Dương Hướng, con người nằm trong những mối quan hệ đa dạng, phức tạp bao gồm quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân họ. Các mối quan hệ này tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết Dương Hướng, con người bị các mối quan hệ xã hội quy định nhiều hơn là tác động làm thay đổi chúng. Nhà văn không chỉ thể hiện quan niệm này thông qua quá trình xây dựng hình tượng nhân vật, mà đôi khi còn đặt nó vào ngôn ngữ nhân vật, như việc để cho Đào Kinh và Hoàng Kỳ Trung (Dưới chín tầng trời) thốt lên: “thời thế thế thời phải thế” khi nhìn nhận lại lịch sử dân tộc qua những trải nghiệm của đời họ.
      Với quan niệm sát thực về con người, Dương Hướng không chỉ nhìn con người trong sự đa dạng, phức tạp mà còn nhìn họ như một số phận để thấy con người với đủ mọi hạnh phúc, khổ đau, niềm vui, nỗi buồn. Con người ấy không tách khỏi hoàn cảnh, “nếm trải” mọi đắng cay, sướng khổ của cuộc đời và kiếp người với “những vết dập xoá trên thân thể và trong tâm hồn”. Mặc dù họ không ngừng vận động để vươn lên, mưu cầu cuộc sống tốt đẹp, nhưng vì lầm lạc mà phần nhiều trở nên bi đát. Vạn trong Bến không chồng là một ví dụ tiêu biểu cho kiểu con người “nếm trải” ấy. Từ chiến trường Điện Biên trở về, mang theo thương tích của chiến tranh, nhưng đó không phải là những vết thương làm cho người lính Điện Biên năm xưa gục ngã, mà con người ấy lại gục ngã ngay ở ngã rẽ vào đời bởi những hủ tục lạc hậu, bởi lòng thù hận, lời nguyền của dòng họ và những lầm lạc của con người, của ngay chính bản thân Vạn. Về với đời thường, Vạn muốn trở thành một “thánh nhân” ở làng Đông nghèo nàn do tập tục và chiến tranh. Anh chọn cho mình lối sống khắc kỷ, tỏ ra khinh bạc vật chất tầm thường, xa với niềm vui trần thế; từ chối tình yêu của mình, không dám nhận tình yêu từ chị Nhân. Thực ra, con người bên trong của Vạn không nguôi khát khao một mái ấm gia đình nhưng bởi do dự, yếu đuối, thiếu bản lĩnh trước tình yêu, trước hạnh phúc cá nhân nên thiếu cả sự cả quyết vì dùng dằng: “Trên đời này còn bao nhiêu chuyện ràng buộc: danh dự, uy tín...” [13, tr.411]. Nhưng khi phần “con người” ở Vạn đã khuất phục được phần “thánh nhân”, khi hạnh phúc bất ngờ ập đến, cái sung sướng cả một đời chưa từng được hưởng, thì nhân vật này lại chưa có sự chuẩn bị để đón nó, bởi chưa bao giờ dám nghĩ, dám mơ đến hạnh phúc làm chồng, làm cha, nên không những đã để tuột, mà còn mù quáng tìm đến cái chết, như một cách trốn tránh. Vạn đã tự kết liễu phần “thánh nhân” mà bao năm Vạn ép xác xây dựng. Quả đúng là “trên đời này không có ai tốt như chú Vạn và không có ai khổ và cô đơn như chú Vạn” [13, tr.567] như cách nghĩ của Hạnh. Trong Dưới chín tầng trời, với hơn một trăm nhân vật chính, phụ, hầu hết trong số họ đều phải trải qua những va đập của lịch sử, bị thay đổi, biến dạng số phận dưới tác động của hoàn cảnh, để rồi họ trở thành hoặc là tội nhân, hoặc là nạn nhân, hoặc chính nhân, hoặc phế nhân, hoặc thiện nhân, hoặc ác nhân trong chính lịch sử ấy.
      Bên cạnh đó, với quan niệm biện chứng về con người, Dương Hướng cũng đồng thời nhận thấy được sự vận động của cuộc sống và con người, trong đó, cuộc sống sẽ chấp nhận những gì con người làm cho nó tốt đẹp hơn. Theo ông, “con người bị đẩy đến đường cùng sẽ có sức mạnh bung phá ghê gớm” để rồi tác động trở lại đối với cuộc sống. Nhân vật thể hiện thành công nhất cho quan niệm này của Dương Hướng là Đào Kinh trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Từ chỗ xuất thân cầu bơ cầu bất, mẹ chết không có chỗ chôn, trình độ văn hoá i - tờ..., Đào Kinh tham gia vào công cuộc Cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, trở thành một “cán bộ cốt cán”, chạy theo thành tích. Bắt gặp vợ ngủ với Trần Tăng nhưng không làm gì được, bị cách chức, phẫn chí, Kinh bỏ làng ra đi. Kinh phải xoay xở đủ nghề để kiếm sống: từ buôn chuối đến đưa người vượt biên. Mười năm ngồi tù vì tội đưa người vượt biên, Kinh đã học được nhiều điều từ chính trong những tháng ngày khốn khó đó để đến khi ra tù, từ hai bàn tay trắng, với những gì đã học được, đã nếm chịu, với nội lực của bản thân, Kinh đã đi đến thành công. Có thể nói, Đào Kinh đã “đi tới tận cùng của nỗi khổ cực để rồi tự đứng dậy vươn lên” [14, tr.403], cuối cùng trở thành một doanh nhân đích thực, một doanh nhân không từ một thủ đoạn lưu manh nào trên thương trường và biết khôn khéo “khai thác triệt để quyền lực” từ những người có chức có quyền. Cho nên, tuy trình độ i- tờ nhưng biết trả tiền, Kinh đã có cả “một đội ngũ trí thức thứ thiệt… tài giỏi thực sự chứ không phải loại ngu dốt khua môi múa mép…” [14, tr.76] và “một đội ngũ cửu vạn tinh nhuệ thông thạo trong nhiều lĩnh vực…võ nghệ cao cường…” [14, tr.77]. Đọc nhân vật Đào Kinh, ta không khỏi liên tưởng đến Sài (Thời xa vắng - Lê Lựu). Từ một đứa bé nông thôn dường như sinh ra để làm mướn, Sài bước một mạch đến đại học và trên đại học, Sài làm tròn nghĩa vụ quân nhân trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đứng trong hàng ngũ những người Cộng sản…Còn Đào Kinh, anh không hề biết đại học và trên đại học, không phấn đấu, rèn luyện trong những tổ chức cách mạng, trường học của anh là nhà giam, chợ búa, là những nơi phải bạo ngược...để giành giật miếng ăn… Tuy vậy, Đào Kinh cũng đã tiến bước khá xa: từ một đứa trẻ “con hoang”, sống “cầu bơ cầu bất”… Đào Kinh trở thành một “tỷ phú”, “một nhân vật trung tâm của thời đại”, làm nên “những điều kỳ diệu trong kinh tế”… Nếu Sài có những cống hiến cho sự nghiệp vinh quang, thì Đào Kinh cuối cùng cũng có những đóng góp không nhỏ cho quê hương và được làng nước đón nhận trong vinh quang, hoan hỷ. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, trong sự thành công đó của Kinh, có sự đóng góp không nhỏ của Trần Tăng và Măng - những thế lực ngấm ngầm bao che, tiếp tay cho những phi vụ làm ăn phi pháp của Kinh được trót lọt. Cũng từ cái nhìn biện chứng đó, ông nhận ra sự vận động không chỉ trong số phận mà cả trong tính cách của con người:Con người nằm trong các mối quan hệ nhân quả, trong thế đối lập của hai phía (hay nhiều phía) gần như không có ranh giới tuyệt đối. Có nghĩa là, tất cả - hai phía đều nằm trong tư thế vừa là đối nghịch, vừa sẵn sàng giao thoa và hoán đổi vị trí cho nhau” [15]. Do vậy, đọc tiểu thuyết Dương Hướng, phần lớn khó có thể đánh giá nhân vật là tích cực hay tiêu cực, khẳng định hay phủ định.
      Tóm lại, cái nhìn sát thực, biện chứng về con người - nhìn con người trong sự đa dạng, phức tạp, vận động và tương tác lẫn nhau của Dương Hướng chính là tiền đề hình thành nên thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn. Cái nhìn đó không chỉ chi phối đến sắc thái cảm xúc, ý nghĩa của tác phẩm mà còn giúp chúng ta nhận thấy vốn sống phong phú cũng như sự sâu sắc trong tư tưởng của tác giả.
1.2 Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Dương Hướng
      Với những quan niệm nghệ thuật vừa biện chứng, vừa sát thực như vậy về con người, Dương Hướng đã xây dựng một thế giới khá đa dạng và phức tạp về nhân vật trong tác phẩm của mình.
1.2.1 Tính đa dạng của nhân vật
      Sự đa dạng của nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng thể hiện trước hết là ở tầng lớp, nghề nghiệp của họ. Trong những tiểu thuyết của nhà văn, bên cạnh những hình tượng chủ yếu là người lính: Vạn, Nghĩa, Hà, Hiệp... (Bến không chồng), Đô, Bức... (Bóng đêm và mặt trời), Hoàng Kỳ Nam, Hoàng Kỳ Trung, Đào Vương... (Dưới chín tầng trời); người phụ nữ: Hạnh, Thuỷ, bà Nhân, mụ Hơn, Dâu, Thắm, Đào, Cúc... (Bến không chồng), Nga, cô Nghĩa, mụ Bông... (Bóng đêm và mặt trời), Yến Quyên, Tuyết, Măng, Cam, Thương Huyền... (Dưới chín tầng trời); người nông dân lam lũ, chất phác: gia đình ông Xung, gia đình Nghĩa, Hạnh (Bến Không chồng), gia đình Ngô Quất, gia đình Bức, bố mẹ Nga... (Bóng đêm và mặt trời), lão Cảo, lão Khi... (Dưới chín tầng trời); còn có cả cán bộ đủ các cấp: Đột (Bến không chồng), Ngô Quất, Đặng Xuân Tòng (Bóng đêm và mặt trời), Trần Tăng, Đào Kinh, Tuyết, Hoàng Kỳ Trung, Thu Cúc... (Dưới chín tầng trời), thương nhân: Hoàng Kỳ Bắc, Đức Cường, Đào Kinh, Mai, mẹ con bà Cháo, Măng (Dưới chín tầng trời), nhà văn: Hoàng Kỳ Nam (Dưới chín tầng trời), Đô (Bóng đêm và mặt trời), nghệ sĩ: hoạ sĩ Thuần, Nga (Bóng đêm và mặt trời)... Có thể nói, với hệ thống nhân vật đa dạng về tầng lớp và nghề nghiệp như vậy, Dương Hướng đã phác thảo gần như trọn vẹn bộ mặt xã hội Việt Nam hơn nửa thế kỷ.
      Không chỉ đa dạng về tầng lớp, nghề nghiệp, nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng còn đa dạng về vị trí, vai trò chính phụ trong tác phẩm. Với số lượng nhân vật đông đảo (Bến không chồng: 102, Bóng đêm và mặt trời: 65, Dưới chín tầng trời: 108), Dương Hướng đã dựng nên một bức tranh xã hội với rất nhiều nhân vật chính, phụ khác nhau bao gồm cả chính diện, phản diện và lưỡng diện. Với nhân vật chính: Nhân vật chính diện gồm có: Vạn, Nghĩa, Hạnh, Cô Nhân, Thuỷ, Bà Khiên (Bến không chồng); Nga, Đô và cô Nghĩa (Bóng đêm và mặt trời); Hoàng Kỳ Nam, Yến Quyên, Thương Huyền, Đức Cường (Dưới chín tầng trời ). Nhân vật phản diện bao gồm: ông Xung (Bến không chồng); lão Kình, Đặng Xuân Tòng (Bóng đêm và mặt trời); Trần Tăng (Dưới chín tầng trời ).Về nhân vật lưỡng diện, trong Bến không chồng là mụ Hơn; trong Bóng đêm và mặt trời là Bức và Ngô Quất; trong Dưới chín tầng trời là: Hoàng Kỳ Trung, Đào Thanh Măng, Đào Vương, Cam, Tuyết, Thu Cúc. Các nhân vật phụ xuất hiện với một số lượng khá lớn trong tác phẩm Dương Hướng. Có nhân vật phụ được giới thiệu tính cách, lai lịch (Dâu, mẹ con bà Cháo, Đỗ Hiền, vú nuôi...), nhưng có những nhân vật chỉ được nhắc tên qua lời kể của nhân vật khác. Dù không được khắc hoạ đầy đặn về mặt ngoại hình, tính cách, nhưng từ cách mô tả, gọi tên và hành động của nhân vật chúng ta vẫn có thể nhận ra chúng theo tiêu chí tính lý tưởng của nhân vật như sau: Về nhân vật chính diện, trong Bến không chồng có 63 nhân vật (Cụ Nghiên, Hà, Hiệp, Nguyễn Khiên, Ngốc, ông Kình, ông Phỏng, ông Rinh, ông giáo Thảo, anh Dĩ, thím Xeng, Xèng, Xình, lão Khi, anh Nhương, bà Nhị, chú Đang, chị Vòng, chị Sen, thằng Tý con bà Dĩ, thằng Tưởng con bà Nhương điếc, con Hương con nhà Hạnh, con nhà Đoan, con nhà Hồng, Thước, Hinh, chị Cả Nghĩa, anh Đông, ông Tang, Hồng, ông Hoà, ông Nhượng, Dâu, ông Thịnh, ông Khoái, cha con Lý Toét, bố Dâu, Thư con ông Phỏng, hai đứa con chú Xeng, Anh Nhai, tay Tẹo, Tươi, Thành, chị Lùn, tay tài, tay bôn, chú nhĩ, bố Hạnh, hai ông bà ở Hưng Yên, Loan, Thăng, con Hoa nhà Đào, Lang, cu Linh, thằng Đạo, Cường, bà Tạng, bà Chi, thằng Tô, con Biền); trong Bóng đêm và mặt trời có 46 nhân vật (Chú Học, chú Bất, Lưỡng, bác Mùa, dì Thảo, mẹ Đô, ông Cam, mẹ Ngô Quất, lão Kẹo, bé Hà, nhà Tường, nhà Mộc, cháu con ông anh Quất, anh Cả Quất, hai đứa con anh Lạnh, hai đứa con anh Mát, ông Tảo, xã đội trưởng, ông Hỷ, đội trưởng đội cà rùng, ông Vòng, anh lái xe, Bẩu, cái Hoà, cô Bân, chị Hưởng, ông Lành, thằng Tường, thằng Bân, y tá, Đào, người lính già, cô bé ăn mày, người công an, người khách ngoại quốc, người quản trại, hoạ sĩ Thuần, cụ già, Nguyệt, Thảo, Phượng, trại trưởng trại thương binh, thằng con chủ quán, vợ Thuần); trong Dưới chín tầng trời có 59 nhân vật (Hoàng Kỳ Bắc, bà nội Nam, ông bà ngoại Nam, cô gái Nga, mẹ Đào Kinh, chú Bành, bà Đức Cường, vú nuôi, Đức Thịnh, Hall, Ngọc Lan, ông Khi, thằng Ngố, cô Lùn, anh Câm, Mai, Thuận, Cảo, Sáng, Tráng, cụ già bán nước, bé Thuỷ, Duyên, bố chồng Mai, người chồng ở Trung Quốc của Mai, hai đoàn viên thanh niên, Loan, Tim, John, trưởng thôn Đáo, anh Đùng, Tẹo, chú Bành, cô Mít, ông Thịnh, ông Bang, con Đậu, cái Na nhà chú Thoan, thằng Tính con nhà Tang, lão Sinh, Trong, Trung, cái Na, cái Mít nhà ông Mật, tay vệ sĩ của Măng, người giúp việc nhà Thu Cúc, anh lái xe taxi, ông Ban, bí thư đảng uỷ xã, ông Nhinh, mụ Cỏn, mụ Sót, hai đứa con Đỗ Hoàng, hai đứa con Măng, bố Trần Tăng). Về nhân vật phản diện, trong Bến không chồng có 13 nhân vật (Đột, Xeng, địa chủ Hào, chú Bỉnh, ba thằng ma cô, Hân, Huy, tay thợ ảnh, Quách, Thới, Dục); trong Bóng đêm và mặt trời có 4 nhân vật (Anh Lạnh, mụ chủ quán ăn, chàng thanh niên, ông thợ may); trong Dưới chín tầng trời có 16 nhân vật (Đỗ Hiền, Đỗ Hoàng, Bell, Danh, Thao, thuyền trưởng tàu hàng, Ba Sẹo, chồng cũ Mai, thằng đầu trọc, tay Đảo, tay Tắc, mụ Vó, mụ Vườn, tay Côn, thằng Rược, con trai Trần Tăng). Về nhân vật lưỡng diện, trong Bến không chồng có 15 nhân vật (Tý Hin, Thao, ông Hưng, thằng Công, Tốn, Thắm, bà Hinh, chị Ngọ, bà Kha, chú Ngôn, Biền, chị Nhài, Ba Chương, Cúc, Thấu); trong Bóng đêm và mặt trời có 7 nhân vật (Cô Bông, anh Mát, bà lão Kình, vợ Lạnh, vợ Mát, cặp sinh viên); trong Dưới chín tầng trời có 17 nhân vật (Bà Cháo, Muôi (Mây), Muỗng (Mẫn), Thìa (Thuần), chồng Thu Cúc, Hoà, tổng biên tập, Lê Phong, chồng Mẫn, chồng Thuần, Lợi, thuyền trưởng tàu cá, Lan, Như, Thơm, cán bộ văn phòng, vợ Trần Tăng). Trong thế giới nhân vật chính, phụ đa dạng đó, số lượng nhân vật phụ lớn hơn rất nhiều so với nhân vật chính. Nhân vật phụ nhiều tạo nên “cái thừa” trong tiểu thuyết. Qua họ, Dương Hướng có thể triển khai thêm nhiều vấn đề, câu chuyện xung quanh cốt truyện chính, làm phong phú thêm cho câu chuyện. Bởi thế, có thể nói, hệ thống nhân vật phụ đông đảo chính là một trong những yếu tố làm nên tính chất tiểu thuyết trong hệ thống nhân vật của tiểu thuyết Dương Hướng.
      Việc tạo dựng nên nhiều mối quan hệ chồng chéo giữa các nhân vật cũng góp phần làm nên tính đa dạng trong thế giới nhân vật của tiểu thuyết Dương Hướng. Nhà văn luôn đặt nhân vật của mình trong các mối quan hệ khác nhau để soi ngắm, từ đó mà thấy được quá trình vận động, trưởng thành của họ. Vấn đề này sẽ được làm rõ hơn trong phần trình bày về nghệ thuật xây dựng nhân vật.
1.2.2 Tính phức tạp, đa diện của nhân vật
      Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng là một thế giới phức tạp, đa diện. Tính phức tạp, đa diện thể hiện trước hết ở chỗ, nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng rất khó phân định rạch ròi giữa các tuyến. Nhân vật trở nên không đồng nhất với chính nó. Ngoại trừ Yến Quyên và Hoàng Kỳ Nam (Dưới chín tầng trời) có thể xếp hẳn vào nhân vật chính diện, nhiều nhân vật chính hay phụ khác khi phải phân tuyến đều mang tính tương đối, số lượng nhân vật lưỡng diện cũng khá đông đảo. Do đó, có trường hợp, xét trên đại thể, nhân vật là chính diện, nhưng nếu soi chiếu từ một góc độ khác thì nhân vật ấy có thể bị xem là phản diện (Vạn - Bến không chồng). Ngược lại, nhân vật Trần Tăng (Dưới chín tầng trời), xét trên đại thể là nhân vật phản diện, nhưng từ góc độ tình cảm với Tuyết, với làng Đoài, từ góc độ lịch sử thì ta có thể dễ dàng thông cảm hơn đối với con người này...
      Mặt khác, nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng mang tính phức tạp, đa diện còn vì nhà văn đã hướng tới miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ; đề cập đến khát vọng sống, hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa; đi vào thế giới nội tâm, khám phá chiều sâu tâm linh... nghĩa là nhìn ngắm con người từ rất nhiều góc độ khác nhau nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực... Nhân vật vì thế hiện lên như một số phận, “nếm” đủ mọi đắng cay bầm dập trên dòng đời đầy biến động, biến đổi, trưởng thành để thích ứng với hoàn cảnh và tác động trở lại hoàn cảnh. Nhân vật thể hiện rõ nét nhất đặc điểm này chính là Đào Kinh (Dưới chín tầng trời). Bên cạnh đó, các nhân vật: Vạn, Hạnh, Thuỷ, Nghĩa, ông Xung, mụ Hơn... (Bến không chồng), Nga, Đô, Bức, Ngô Quất (Bóng đêm và mặt trời), Cam, Tuyết, Măng, Trần Tăng, Đào Vương... (Dưới chín tầng trời) cũng đều được miêu tả theo hình thức này. Việc xây dựng nhân vật như một “số phận” góp phần làm nên tính chất tiểu thuyết của nhân vật trong tác phẩm Dương Hướng.
      Tóm lại, có thể nói, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng phong phú, đa dạng, phức tạp và đầy năng động. Mỗi nhân vật đều là một số phận, tính cách, có nhiều thăng trầm trong cuộc vật lộn mưu sinh. Điều đặc biệt, những nhân vật này chủ yếu là những người dân làng Đoài - quê ông, dần dần, họ toả đi muôn nơi để kiếm sống bằng nhiều con đường khác nhau do những biến thiên, xô đẩy của xã hội, lịch sử, chịu bao “quăng quật” của cuộc sống. Nhưng, dù ở đâu, làm gì, họ vẫn cố gắng vươn lên để tồn tại rồi trở về góp phần xây dựng quê hương. Với thế giới nhân vật ấy, phải chăng Dương Hướng muốn phục hiện lại gương mặt phồn tạp của cuộc sống qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
1.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Dương Hướng
      Nhân vật là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới con người một cách hình tượng. Vì thế, văn học không thể thiếu nhân vật. Nó là trung tâm của tác phẩm văn học. Với nhà văn, nhân vật là phương tiện để nhà văn thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. Trong tiểu thuyết, nhân vật là “con người nếm trải”. “Nhân vật tiểu thuyết cũng hành động, nhưng với tư cách là con người nếm trải, cảm nhận, tư duy, chịu khổ đau và các dằn vặt của đời. Tiểu thuyết miêu tả con người trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh một cách giả tạo, không cô lập nó cũng như không cường điệu sức mạnh của nó. Nó miêu tả nhân vật như một con người đang trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo” [24, tr.299 - 300]. Nó “thống nhất trong bản thân những nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm thường vừa cao cả, vừa buồn cười vừa nghiêm túc” [24, tr.297-298]. Nó được miêu tả nhiều mặt: tính cách, cá tính, số phận, hành động, tâm lý, quan hệ, ngôn ngữ... Các thuộc tính của nhân vật được miêu tả trong quá trình, trong tổng hoà mọi bình diện, từ ý thức đến vô thức, từ tư tưởng đến bản năng, từ mặt xã hội đến mặt sinh học.
      Từ đặc điểm về nhân vật trong tiểu thuyết nói chung, chúng ta tiến hành khảo sát nhân vật trong tiểu thuyết của Dương Hướng trên hai bình diện: thể loại và phong cách, qua đó không chỉ thấy được đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn mà còn thấy được phương thức tổ chức, xây dựng các nhân vật ấy.
1.3.1 Nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng từ góc nhìn thể loại
      Để tạo nên hình tượng nhân vật, Dương Hướng đã xây dựng họ thông qua các yếu tố: tên gọi, diện mạo; lai lịch, tiểu sử; các mối quan hệ; sự vận động của nhân vật.
  1.3.1.1 Xây dựng nhân vật thông qua tên gọi, diện mạo
      Xây dựng nhân vật, trước hết, Dương Hướng quan tâm đến việc miêu tả bản thân nhân vật từ tên gọi cho đến diện mạo, dáng hình.
      Tên gọi vốn chỉ là một từ để xưng hô, để phân biệt giữa người này với người khác. Tuy nhiên, trong văn học, tên gọi của nhân vật đôi khi lại là một ngụ ý của tác giả, nằm trong ý đồ sáng tác của nhà văn. Nếu các nhân vật trong sử thi xuất hiện với tên gọi báo hiệu những phẩm chất sáng choé thì nhân vật trong tiểu thuyết lại mang những cái tên gần gũi với cuộc sống đời thường mà nó được phản ánh. Có lẽ chính vì thế mà tên gọi của các nhân vật trong tiểu thuyết của Dương Hướng cũng thoát ra khỏi tính chất sử thi trở về với những cái tên thân thuộc, gắn liền với cuộc sống. Bên cạnh những Bắc, Trung, Nam, Tuyết, Quyên, Huyền, Nhân, Nghĩa, Hạnh, Nga..., là những Măng, Cam, Cảo, Cháo, Muôi, Muỗng, Thìa, Dâu, Thắm, Tươi, Vạn, Hơn, Quất, Bức, Lạnh, Mát, Xung, Xeng... Những cái tên khiến cho tiểu thuyết của ông vừa đọc lên đã giúp cho người đọc phần nào đoán ra được nghề nghiệp, tầng lớp của họ. Là nông dân thì họ mang những cái tên rất chân quê, gắn với những sự vật quen thuộc ở nông thôn: Dâu, Mít, Thắm, Tươi, Quất, Kình, Bức, Lạnh, Cam, Vó, Vườn, Muôi, Muỗng, Thìa, Cháo, Lùn, Câm, Ngố, Cảo, Măng... Đôi khi, đằng sau những tên gọi ấy còn kèm theo cả những định ngữ giúp ta hiểu thêm về nhân vật: Tay Cảo chăn vịt, tay Tắc hoạn lợn, hay nàng Cam Quýt Mít Dừa... Nếu là người trí thức, có địa vị thì sẽ là Thuỷ, Nghĩa, Bắc, Trung, Nam, Yến Quyên, Tuyết, Thương Huyền, Đức Cường, Ngọc Lan... Có thể nói, với việc tạo nên những tên gọi gắn với cuộc sống, thoát khỏi tính chất sử thi ấy, Dương Hướng đã phần nào thể hiện tính chất tiểu thuyết của nhân vật.
      Xây dựng hình tượng nhân vật, bên cạnh tên gọi, nhà văn không thể không khắc hoạ diện mạo của họ. Diện mạo ấy có thể là gương mặt, dáng hình và cả trang phục của nhân vật. Tuy nhiên, tuỳ theo ý đồ của nhà văn mà sự khắc hoạ này có nhiều mức độ và phương diện khác nhau. Vì thế, có nhân vật được tác giả miêu tả diện mạo một cách chi tiết, nhưng có nhân vật chỉ là những nét chấm phá, song lại gợi lên nhiều điều. Vẻ đẹp của Yến Quyên, Thương Huyền (Dưới chín tầng trời), Hạnh (Bến không chồng) hay Nga (Bóng đêm và mặt trời)... được Dương Hướng tạo nên từ những miêu tả chi tiết về diện mạo của họ. Tuy nhiên, những nhân vật này hầu hết đều là những nhân vật nữ chính diện, nên những chuẩn mực chính thống về cái đẹp vẫn được Dương Hướng sử dụng làm chất liệu chủ yếu trong khi tái hiện chân dung của họ. Từ “công thức”: “hồng nhan bạc mệnh”, hay theo cách nói của nhà văn là: “Người đẹp dễ sinh tai hoạ” [14, tr.46], bởi thế, cuộc đời của những nhân vật này về sau đều gặp không ít truân chuyên mà nguyên nhân cũng vì vẻ đẹp của mình. Bên cạnh sử dụng những chuẩn mực mang tính chính thống ấy, việc tạo nên những chi tiết cho thấy sự phi chính thống, phi quan phương và phi sử thi trong khi khắc hoạ diện mạo ở một số nhân vật, đã cho thấy tính chất tiểu thuyết trong việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Ví như, khi miêu tả nhân vật Ngô Quất (Bóng đêm và mặt trời), Dương Hướng đã dựng nên diện mạo của một con người “xấu xí”,”dị dạng” thông qua cái nhìn của Đô:
Nó nhìn người đàn ông nó phải gọi là dượng, có nước da tai tái, mặt choắt đầu tháp bút, dáng mất cân đối quá thể. Chân dượng dài ngoẵng, lưng lại quá ngắn, khi ngồi trông dáng người lùn, khi đứng lại cao lênh khênh... Chợt nhìn thấy già khọm, nhìn lâu lại trẻ. Nhất là khi ông ta cười, nụ cười đần độn ngây ngô như con nít [13, tr.27].
      Nhưng vẻ ngoài ấy lại không nhằm dự báo một điều gì sau đó theo một công thức định sẵn, việc miêu tả diện mạo ấy chỉ nhằm mục đích khắc hoạ rõ hơn cho hình tượng nhân vật mà thôi. Còn với nhân vật Đào Kinh (Dưới chín tầng trời), diện mạo nhân vật lại không được khắc hoạ ngay từ đầu và trong cùng một lúc, nó biến đổi theo từng thời điểm khác nhau trong cuộc đời nhân vật. Chẳng hạn như, lúc còn nhỏ, Đào Kinh là cậu bé mà gương mặt “có nét gì đặc biệt” [14, tr.48] theo cách đánh giá của Hoàng Kỳ Bắc; khi Kinh trở thành cán bộ văn hoá tuyên truyền, y hiện lên trong bộ dạng: “suốt ngày kè kè xà cột bên hông” [14, tr.115]; lúc Kinh đứng cạnh Cam trong ngày cưới con Măng thì “mặt đuồn đuỗn vô hồn” [14, tr.320]; khi Kinh đã thành tỉ phú, trong mắt Nam, “Đào Kinh lúc này không còn chút dấu vết của ngày xưa. Hoàng Kỳ Nam chỉ nhận ra Đào Kinh ở đôi mắt sâu, cặp lông mày dày với cái nhìn phớt đời” [14, tr.73], còn trong mắt Trần Tăng, “Đào Kinh đã lột xác hoàn toàn. Thằng Đào Kinh bị Trần Tăng cho dân quân bắt nhốt một đêm trong chuồng trâu năm nào giờ ngồi trước mặt Trần Tăng như một ông hoàng” [14, tr.29]. Có thể nói, diện mạo nhân vật Đào Kinh được khắc hoạ không nhiều, nhưng nó cho thấy sự vận động qua thời gian, hoàn cảnh chứ không cố định, mang tính công thức, dự báo, vì thế nó phi chính thống, phi sử thi, và mang tính tiểu thuyết nhiều hơn.
  1.3.1.2 Xây dựng nhân vật thông qua lai lịch, tiểu sử
      Nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng không chỉ được hiện lên từ tên tuổi, diện mạo, mà còn được xây dựng cả lai lịch, tiểu sử. Qua đó, người đọc hiểu hơn về số phận, cuộc đời của họ. Ví như khi xây dựng hình tượng Yến Quyên, bên cạnh những trang văn miêu tả về diện mạo tuyệt đẹp của chị, Dương Hướng không quên giới thiệu cho người đọc biết lai lịch xuất thân của nhân vật này: “Yến Quyên là gái làng Đông” [14, tr.46]. Đối với Đào Kinh cũng vậy, dù sau này có trở thành tỉ phú chăng nữa, khi nhắc đến nhân vật này chúng ta cũng không quên được ấn tượng về lai lịch của ông ta: “Đào Kinh là thằng con hoang cầu bơ cầu bất không rõ gốc gác quê quán nơi đâu đến gõ cửa gia tộc Hoàng Kỳ xin làm mướn....” [14, tr.48]. Với hơn bốn trang trình bày về lai lịch Đào Kinh, Dương Hướng đã ghi dấu ấn sâu đậm vào lòng người đọc về xuất xứ của nhân vật này để rồi với những thay đổi, thăng trầm về sau của y, chúng ta thấy được cuộc đời bầm dập của nhân vật, ý chí vươn lên, cũng như hiểu hơn về mối quan hệ giữa y với người dân làng Đoài, nhất là với gia tộc Hoàng Kỳ. Những nhân vật khác: Vạn, Nghĩa, Hạnh, mụ Hơn, ông Xung... (Bến không chồng), hay Nga, Đô, Bức, Ngô Quất... (Bóng đêm và mặt trời), Hoàng Kỳ Nam, Tuyết, Thu Cúc, Thương Huyền... (Dưới chín tầng trời), dù nhiều, ít khác nhau nhưng đều được Dương Hướng quan tâm đến lai lịch xuất thân của họ. Điều này sẽ giúp cho nhân vật có thể để lại những ấn tượng ban đầu trong lòng người đọc, giúp chúng ta có những đánh giá, nhìn nhận, lý giải đúng hơn về những đổi thay trong cuộc sống của họ sau này.
      Cùng với lại lịch, tiểu sử của nhân vật cũng được Dương Hướng để ý đến. Tiểu sử ấy được xây dựng trong suốt quá trình nhà văn kể về cuộc đời nhân vật. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiểu sử của nhân vật cũng được kể liền mạch, theo một trật tự nhất định, mà đôi khi nó có sự đan xen, đảo ngược theo dòng hồi nhớ của nhân vật hay ý đồ sáng tạo của nhà văn. Có thể nhận thấy, Hạnh, Nghĩa (Bến không chồng), Nga, Đô, Bức (Bóng đêm và mặt trời)... là những nhân vật đại diện cho cách xây dựng tiểu sử của nhân vật theo trình tự thời gian. Nhân vật Vạn (Bến không chồng), Ngô Quất (Bóng đêm và mặt trời) được xây dựng tiểu sử thông qua sự hồi nhớ của nhân vật. Tiểu sử của Đào Kinh và những nhân vật khác trong Dưới chín tầng trời lại được xây dựng qua cách tổ chức các sự kiện của nhà văn nên các biến cố của cuộc đời nhân vật xen lẫn nhau giữa hiện tại và quá khứ, quá khứ gần và quá khứ xa... Qua việc xây dựng tiểu sử nhân vật, nhà văn đã giúp chúng ta hình dung được cuộc đời với những bước ngoặt thăng trầm của đời họ, từ đó mà hiểu hơn về nhân vật.
      Có thể nói, lai lịch và tiểu sử của nhân vật là một trong những phương diện không thể thiếu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Từ phương diện này, chúng ta có thể hình dung được những biến động, đổi thay về số phận, cuộc đời nhân vật, những bầm dập mà họ phải “nếm trải” trong cuộc sống, qua đó, góp thêm một cái nhìn khác trong việc đánh giá nhân vật một cách toàn diện.
  1.3.1.3 Xây dựng nhân vật thông qua các mối quan hệ
      Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, vì thế, nhân vật chỉ có thể bộc lộ tính cách trọn vẹn khi nhà văn xây dựng nó trong các mối quan hệ. Đó không chỉ là quan hệ giữa con người với xã hội mà còn là quan hệ giữa con người với thiên nhiên và với chính bản thân mình.
      Nhân vật trong các tiểu thuyết của Dương Hướng luôn được đặt trong các mối quan hệ ràng buộc với gia đình, dòng họ, xóm làng. Vấn đề này được nhà văn khai thác khá nhiều ở cả ba cuốn tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân vật trong mối quan hệ với cấp trên, cấp dưới, đồng đội, kẻ thù ở hai đầu chiến tuyến... cũng được Dương Hướng đặt ra trong Bóng đêm và mặt trờiDưới chín tầng trời. Để xây dựng nhân vật trong các mối quan hệ phức tạp, đa dạng, chồng chéo như vậy, Dương Hướng đã tạo nên quanh các nhân vật của mình những mối quan hệ vừa có sự đối lập, đối chiếu, tương phản, lại vừa có sự bổ sung cho nhau. Quan hệ đối lập thường gặp trong tiểu thuyết Dương Hướng là đối lập giữa thiện và ác, giữa tốt và xấu trên các phương diện: địa vị, cá tính, phẩm chất...Ví dụ như nhân vật Đô và Đặng Xuân Tòng trong Bóng đêm và mặt trời, hay như giữa Trần Tăng và gia tộc Hoàng Kỳ trong Dưới chín tầng trời... Tuy nhiên, cái khéo của tác giả là đã làm cho các nhân vật đối lập ấy có sự ràng buộc lẫn nhau. Đặng Xuân Tòng không chỉ là thủ trưởng của Đô, là người tình của vợ anh mà còn là cha của Nguyệt - con gái của người phụ nữ mà suốt đời Đô dành trọn yêu thương. Trần Tăng là kẻ phá tan gia đình Hoàng Kỳ, nhưng chính y cũng là kẻ luôn mơ ước có được Yến Quyên - vợ Hoàng Kỳ Trung, và đã có quan hệ với Tuyết - vợ Hoàng Kỳ Nam, nói cách khác, y vừa là kẻ thù của gia tộc lại vừa có mối quan hệ sâu sắc với gia tộc này. Chính những mối quan hệ ràng buộc đó làm cho sự đối lập lại càng thêm gay gắt. Không chỉ có quan hệ đối lập, giữa các nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có quan hệ đối chiếu, tương phản. Ví như, đó là sự tương phản giữa Yến Quyên và Tuyết (Dưới chín tầng trời); giữa cô Nhân và mụ Hơn (Bến không chồng); giữa Đô và Bức (Bóng đêm và mặt trời)... Quan hệ tương phản xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Dương Hướng, bởi mỗi nhân vật là một số phận, một tính cách không giống nhau. Quan hệ này có thể xảy ra giữa những nhân vật đồng tuyến hay khác tuyến, nếu xảy ra giữa những nhân vật đồng tuyến thì sẽ làm cho các nhân vật thêm sắc nét, nếu xảy ra giữa các nhân vật khác tuyến thì sẽ làm cho sự đối lập, khác biệt của các nhân vật thêm phần gay gắt. Quan hệ bổ sung cũng là mối quan hệ được Dương Hướng sử dụng khi xây dựng hệ thống nhân vật của mình. Đó có thể là quan hệ bổ sung phụ thuộc giữa các nhân vật chính và nhân vật phụ trong tác phẩm. Ví dụ như mối quan hệ giữa Hạnh với Dâu, Thắm, Cúc... (Bến không chồng), giữa Đào Kinh và mẹ con bà Cháo (Dưới chín tầng trời), giữa lão Kình với vợ và cháu lão: Cả Lạnh, Mát... (Bóng đêm và mặt trời). Với việc tạo ra mối quan hệ này, tác giả đã tạo nên bề dày cho các nhân vật chính trong tiểu thuyết của mình. Bên cạnh quan hệ bổ sung phụ thuộc, nhân vật trong các tiểu thuyết của Dương Hướng còn có quan hệ bổ sung đồng đẳng: Hạnh, bà Nhân, bà Khiên... (Bến không chồng); Thu Cúc, Hoàng Kỳ Trung, Đào Vương... (Dưới chín tầng trời). Các nhân vật này bổ sung nhưng không phụ thuộc nhau mà cùng thể hiện cuộc sống của một lớp người. Có thể nói, nhờ việc xây dựng nhân vật trong các mối quan hệ giữa con người với con người mà chúng ta có thêm nhiều điểm nhìn từ những nhân vật khác nhau trong tác phẩm về nhân vật đó.
      Nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng còn được đặt trong mối quan hệ với tự nhiên, đó có thể là dòng sông, bến nước, là cánh đồng, đêm trăng, bãi cỏ... của khung cảnh làng quê bình lặng nhưng không bình yên; là núi cao, rừng thẳm, khe sâu trên bước đường người lính hành quân ra trận... Chính trong những khung cảnh thiên nhiên ấy, nhân vật không chỉ bộc lộ những tâm sự thầm kín mà còn thể hiện tình cảm của mình với quê hương đất nước bắt nguồn từ những ngọn núi, con sông quen thuộc đó.
      Đặc biệt, nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng còn được đặt trong mối quan hệ với chính bản thân mình. Những trường đoạn miêu tả nội tâm xuất hiện với tần số khá nhiều trong các tác phẩm, giúp cho người đọc đi sâu hơn vào thế giới bên trong của nhân vật để hiểu và đồng cảm với số phận của họ.
  1.3.1.4 Xây dựng nhân vật thông qua sự vận động của nhân vật
      Để thấy được sự vận động trong tính cách nhân vật, Dương Hướng đã xây dựng tính cách nhân vật thông qua hành động và ngôn ngữ của họ.
      Hành động của nhân vật nói lên tính cách nhân vật, đó là quan niệm từ xưa đến nay trong cách thức xây dựng nhân vật. Qua việc tạo dựng nên những hành động cho nhân vật, Dương Hướng đã phần nào giúp người đọc hình dung được tính cách, con người họ. Trong Bến không chồng, Hạnh, qua đám cưới chỉ có đoàn thanh niên làm chứng mà không được sự cho phép của gia đình, đã cho thấy một sự vẫy vùng, cố gắng và một tinh thần dũng cảm dám đương đầu với khó khăn để vượt thoát khỏi những ràng buộc của lời nguyền dòng họ ở hai người. Và với hành động dứt khoát từ bỏ Nghĩa để anh đến với Thuỷ và rồi lao vào vòng tay chú Vạn, đem lại cho Vạn một hạnh phúc lớn lao trong cuộc đời khi nghĩ rằng mình không thể có con, Hạnh khiến cho người đọc vừa ngậm ngùi, xót xa, vừa cảm thương, mến phục bởi sự hi sinh của cô. Yêu Nghĩa tha thiết, dám vượt qua cả lời nguyền của hai dòng họ để đến với người mình yêu, chịu đựng biết bao cay đắng, khổ cực của cuộc đời làm dâu, làm vợ có chồng đi xa, vậy mà dám từ bỏ để mong người mình yêu được hạnh phúc, điều đó không phải ai cũng làm được. Cũng chính người con gái ngơ ngẩn vì đau đớn khi chia tay chồng đó, lúc ở đáy sâu của đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng lại nhận ra có người còn khổ hơn cả mình, đó là chú Vạn, để rồi đi đến quyết định đem đến cho Vạn hạnh phúc được trở thành người đàn ông. Có thể nói, qua một vài hành động tiêu biểu như vậy đã cho thấy được phần nào con người, tính cách của nhân vật Hạnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn Vạn là một trong những nhân vật đáng lưu tâm. Qua việc xây dựng các hành động cho nhân vật, tính cách nhân vật dần dần được hé mở. Vạn, người anh hùng Điện Biên năm xưa trở về làng với một khối lý tưởng cứng nhắc về một xã hội tốt đẹp, anh sẵn sàng bắn vào người trong họ tộc, sẵn sàng bắt giam họ nếu trách nhiệm với chính quyền buộc anh phải làm thế. Anh từ chối tình yêu của mình với chị Nhân, khinh thường những ham muốn xác thịt và vật chất tầm thường, sẵn sàng phá đi những thứ bị coi là hủ tục, lạc hậu vì một lý tưởng cứng nhắc mà mình tôn thờ... Nhưng cuối cùng, phần “con” trong anh đã thắng phần “Người”, anh có con với người mà anh xem như con - với con gái của người phụ nữ anh yêu. Hạnh phúc đến với anh quá bất ngờ, anh lại chưa sẵn sàng đón nhận hạnh phúc được làm chồng, làm cha đó. Vạn tìm đến cái chết. Hành động trầm mình tự vẫn của Vạn không chỉ là một sự tự trừng phạt của một kẻ phạm tội tầy đình, một sự tự giải thoát, hoá giải cho bao lầm lạc, xót xa của cuộc đời. Hành động đó còn nói lên sự phá sản của quan niệm chung về con người lý tưởng đã từng có một thời. Trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, nhân vật Trần Tăng là một trong những nhân vật được Dương Hướng kỳ công khắc hoạ. Thông qua một loạt những hành động trong hơn nửa cuộc đời của nhân vật này, người đọc có thể nhận diện được bản chất của một con người đầy mưu mô, tham vọng, bê tha trong lối sống, nhếch nhác về đạo đức... Ông ta xử bắn Hoàng Kỳ Bắc trong thời kỳ cải cách ruộng đất, phá tan gia tộc Hoàng Kỳ chỉ vì không thể có được một người đàn bà - Yến Quyên, người con dâu của gia tộc ấy. Ông ta tằng tịu với Cam - vợ một cán bộ cốt cán với mình, dụ dỗ, vỗ về Tuyết - vợ bộ đội... Tuy nhiên, với nhân vật này, Dương Hướng không hề có ý “bôi bác”, không hoàn toàn muốn biến nhân vật thành một con quỷ “dâm dục”, “vô luân”, nên khi xây dựng các hành động của Trần Tăng, tác giả cũng phần nào thể hiện nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành động đó. Nếu nàng Cam không ham muốn “chuyện đó” như thế, nếu Tuyết không “mông muội, thực dụng, háo danh, hãnh tiến” [14, tr.312]..., nếu mọi người đàn bà đều trung trinh như Yến Quyên thì có lẽ Trần Tăng cũng chỉ dám ước ao mà thôi. Và ngay cả trong hành động gian díu với Tuyết thì lúc đầu đúng là do ham muốn xác thịt, nhưng về sau Trần Tăng thật sự có “tình cảm yêu quý” [14, tr.226], nên “bao nhiêu kinh nghiệm thu lượm được trong những năm tháng qua” ông “muốn truyền lại cho Tuyết, tin ở người con gái làng Đoài đầy tham vọng này sẽ biết cách vươn lên mạnh mẽ” [14, tr.229].
      Cùng với hành động, ngôn ngữ là một trong những phương tiện hữu hiệu giúp cho việc thể hiện tính cách nhân vật. Ngôn ngữ góp phần thể hiện tính cách nhân vật bao gồm ngôn ngữ trong lời nói của nhân vật và ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ trong lời nói của nhân vật chính là những lời đối thoại hay phát biểu của nhân vật. Qua những lời nói đó ta thấy được phần nào tâm tính, suy nghĩ của nhân vật ấy. Ví như khi xây dựng nhân vật Thu Cúc (Dưới chín tầng trời), chỉ khi khai thác ngôn ngữ nói của nhân vật ta mới khám phá được con người thật sự của cô. Thu Cúc là nhân vật có lý lịch đẹp, xuất thân thành phần cơ bản, lại có quá trình hoạt động cách mạng liên tục, rồi trở thành phó chủ tịch thành phố. Tuy nhiên, “Sông sâu còn có kẻ dò, Mấy ai lấy thước mà đo lòng người” - câu nói ấy thật đúng với Thu Cúc lắm thay. Cái đọng lại trong lòng người đọc về nhân vật này là một sắc mặt “lúc nào cũng khó đăm đăm”, hay “đanh lại”; một ánh mắt khiến cho Nam cứ cảm thấy “gai lạnh”; đặc biệt là những lời nói lúc nào cũng vanh vách “lập trường”, “quan điểm”, lúc nào cũng những lý lẽ tàn nhẫn, lạnh lùng, có lúc nghe đến “cạn tàu ráo máng”, sẵn sàng quy kết, trói buộc người khác vào những “tội danh” mà đôi khi họ không làm chỉ vì cái nhìn phiến diện của cô. Có thể dẫn ra một ví nhụ cụ thể lời nói của Thu Cúc về sự tan tác của gia đình Thương Huyền mà dửng dưng đến tàn nhẫn, mới hay con người ấy quả đúng như câu nói của GS. Hoàng Ngọc Hiến là “tuyệt không có một giọt tình” [10]:
Mấy năm nay tôi thiệt là khốn khổ vì cái gia đình này..., chẳng rõ ông bà Đức Cường xưa ăn ở ra sao mà cứ như thể trời phạt. Mới có mấy năm cái gia đình này đã lụn bại, tan tác hết cả. Ông bà Đức Cường mất đi, hai người con thì một chết, một điên khùng như vậy. Thôi thì người chết đã an bài, giờ còn người sống. Nếu tôi không cứng rắn để mặc con Ngọc Lan ở với má nó thì rồi đến ngày nó cũng sẽ ngơ ngẩn như má nó bây giờ đấy. Mọi người thấy có nguy hại không. Nhận thức không đầy đủ, hành động nông nổi của anh Thịnh đã dẫn tới hậu quả nghiêm trọng đến như vậy [14, tr.380].
      Với các nhân vật khác cũng vậy. Tính cách, con người nhân vật trong các tiểu thuyết đã phần nào được bộc lộ qua lời nói của họ. Như vậy, chỉ bằng việc cho nhân vật nói lên suy nghĩ, bằng việc xây dựng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, tác giả đã phần nào tạo nên những ấn tượng về tính cách, diện mạo nhân vật trong lòng người đọc và đó đôi khi là những ấn tượng rất sâu sắc. Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu nhất để hé lộ tính cách, tâm hồn nhân vật. Đó là tiếng nói bên trong, lời nhân vật tự nói với mình, là những suy tư thầm kín của mỗi con người. Thủ pháp này không mới, nhưng được Dương Hướng sử dụng khá hiệu quả trong tiểu thuyết của mình. Đọc Dưới chín tầng trời ta thấy ngồn ngộn hình thức ngôn ngữ này khi tác giả thể hiện cuộc đời, số phận của các nhân vật chính. Đó là những lời tự cật vấn, dằn vặt của Thương Huyền; là sự hối hận cho sai lầm của mình dẫn đến kết cục bi thương cho gia đình của thương nhân Đức Cường; là những suy nghĩ của Trần Tăng khi vượt qua con dốc cuộc đời và khi sắp từ dã cõi đời; những toan tính, suy ngẫm của Đào Kinh...
      Ngoài sự vận động trong tính cách, Dương Hướng còn tạo nên sự vận động trong số phận của nhân vật thông qua việc kiến tạo những biến cố thăng trầm của cuộc đời họ. Có thể nói, cuộc đời chìm nổi, “lên voi xuống chó” của Đào Kinh (Dưới chín tầng trời) chính là sản phẩm của lịch sử dân tộc, nhưng cũng là minh chứng tiêu biểu cho kiểu “con người nếm trải” của nhân vật tiểu thuyết. Ngoài Đào Kinh, số phận các nhân vật khác như Vạn, Hạnh... (Bến không chồng), Nga, Đô, Ngô Quất... (Bóng đêm và mặt trời), Đức Cường, mẹ con bà Cháo... (Dưới chín tầng trời) cũng được nhà văn xây dựng theo hình thức này.
1.3.2 Nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng từ góc nhìn phong cách
      Phong cách nghệ thuật là “một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc...” [9, tr.255].
      Tuy nhiên, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có một phong cách. Chỉ những nhà văn có tài, có bản lĩnh mới tạo ra được phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy là cái lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn làm cho ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa họ với các nhà văn khác, đó chính là sự khác nhau trong cách cảm nhận về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy. Đó là lý do vì sao những hình tượng nhân vật chủ yếu trong tiểu thuyết Dương Hướng cũng là người lính, người nông dân, phụ nữ... như nhiều những tiểu thuyết khác cùng thời (Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường, Thời xa vắng – Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh...) nhưng ta vẫn có thể nhận ra những nét riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn xứ mỏ. Vậy, từ góc độ phong cách ta có thể thấy được điều gì về nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng?
  1.3.2.1 Những nét đậm trong việc miêu tả nhân vật
      Có thể nói, những nhân vật chính diện trong tiểu thuyết Dương Hướng mang tính khuôn mẫu và âm hưởng sử thi nhiều nên đôi khi khiến cho nhân vật trở thành “thánh nhân”, xa rời cuộc sống. Còn những nhân vật phản diện, lưỡng diện (trừ Trần tăng vẫn mang âm hưởng sử thi) được nhà văn khai thác ở những góc độ rất đời thường, rất con người, ít nhiều có tính biếm hoạ do vậy không chỉ khiến cho người đọc thấy gần gũi với hiện thực mà còn có cảm giác thoải mái, hào hứng khi đọc. Khác với những nhân vật chính diện, do muốn tạo nên những con người hoàn hảo nên nhà văn còn có chỗ e dè khi miêu tả, những nhân vật phản diện và lưỡng diện lại được Dương Hướng lột tả đến tận cùng con người họ, không chỉ là ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ mà cả phần bản năng, tính dục và cuộc đời chìm nổi. Họ được nhà văn chăm chút kỹ cho số phận. Đó là những nhân vật có quá trình vận động phức tạp, bị “quăng quật” giữa dòng đời đầy những biến động không ngừng. Chính vì thế, so với nhân vật chính diện, những nhân vật phản diện hay lưỡng diện trong tiểu thuyết Dương Hướng là những cá nhân thể hiện tính chất tiểu thuyết ở phương diện nhân vật hơn cả. Có lẽ vì vậy mà những trang viết về nhân vật Đào Kinh hay hơn về những nhân vật chính diện như Yến Quyên, Hoàng Kỳ Nam...(Dưới chín tầng trời); viết về mụ Hơn, ông Xung hay hơn viết về Nghĩa, Vạn...(Bến không chồng)...
      Một trong những nhân vật phản diện được miêu tả hay nhất, cho thấy sự già tay của tác giả trong nghệ thuật xây dựng nhân vật là Đào Kinh. Kinh là nhân vật có sự lưu chuyển số phận khi hoàn cảnh thay đổi. Sự thay đổi số phận của y cho thấy một quá trình vận động phức tạp, sự nỗ lực vượt lên số phận của nhân vật. Xuất thân là một đứa trẻ lang thang, không tấc đất cắm dùi, mẹ chết không có chỗ chôn, đi ở cho gia tộc Hoàng Kỳ... Thời thế xoay vần, từ một tên đầy tớ, khi phong trào cải cách ruộng đất nổ ra, Kinh trở thành một cán bộ cốt cán, rồi làm đến cả cán bộ tuyên truyền trong phong trào hợp tác hoá, nhưng cơn bão hợp tác đã quật cho Kinh một đòn đau đớn. Vì háo danh, mê muội, y bị mất chức, vợ ngủ với cấp trên mà không làm gì được. Uất ức, phẫn chí, Kinh bỏ làng đi theo thuyền buôn chuối của Mai. Thoát khỏi làng, cuộc sống cũng không hề yên ổn với Kinh. Anh phải lăn lộn kiếm sống nơi đất khách bằng đủ mọi nghề, vào tù ra tội, trải qua những tháng ngày vất vả, khó khăn. Kinh đã đi đến tận cùng của sự khổ cực để rồi tự đứng dậy vươn lên bằng ý chí, nghị lực, lại gặp thời, có quý nhân phù trợ, trở thành một doanh nhân thực thụ, thành tỉ phú và được mọi người ngưỡng mộ...
      Như vậy, xây dựng nhân vật phản diện, lưỡng diện, nhân vật có số phận, có quá trình vận động phức tạp chính là điểm mạnh của Dương Hướng trong nghệ thuật tiểu thuyết. Điều này khiến Dương Hướng khác với Bảo Ninh khi viết Nỗi buồn chiến tranh. Trong Nỗi buồn chiến tranh, những nhân vật chính diện của Bảo Ninh (Kiên, Phương) được miêu tả như những số phận, những nạn nhân của chiến tranh. Nếu chiến tranh không xảy ra, có thể họ đã có một cuộc sống hạnh phúc với mối tình rất đẹp của mình. Nhưng, cuộc chiến tàn khốc đã cuốn phăng hạnh phúc của đời họ, vùi dập tình yêu, và để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi về cuộc chiến, để lại những dày vò cả thể xác và tâm hồn họ ngay cả khi cuộc chiến đã lùi xa. Đối với Kiên, “tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi” [19, tr.51].
  1.3.2.2 Những ấn tượng, tình cảm, hiểu biết về đời sống làng quê trong thế giới nhân vật của Dương Hướng
      Đọc tiểu thuyết Dương Hướng ấn tượng đầu tiên tác động đến người đọc là những trang viết về nông thôn và những nhân vật nông dân hay xuất thân từ nông dân hay hơn, sinh động, chân thực và lôi cuốn người đọc hơn khi ông viết về những đối tượng khác. Phải có một vốn hiểu biết sâu sắc, có một tình cảm yêu mến đến mức nào đối với làng quê Việt Nam thì nhà văn mới có được những trang viết giàu hình ảnh đến thế. Từ cách nghĩ, cách đi đứng, nói năng và ứng xử với những người xung quanh của những nhân vật nông dân trong những sáng tác của nhà văn...tất cả toát lên một vẻ mộc mạc, chân quê mà sống động lạ lùng. Phải chăng, tình cảm gắn bó với quê hương cùng những ấn tượng sâu sắc về làng quê xưa cũ đã ảnh hưởng đến sáng tác sau này của nhà văn?
      Trong tiểu thuyết Dương Hướng, những tên đất, tên làng, tên các địa danh (Cống Linh, cầu Đá Bạc,...), hay những cảnh vật xưa cũ của làng: cây quéo cổ thụ, con đê bên bờ sông Diêm Hộ... đều là những cảnh thực ở làng An Lệch – xã Thuỵ Liên - huyện Thái Thuỵ - Thái Bình quê ông. Ngay cả tên các nhân vật cũng là những cái tên của nguyên mẫu thật ngoài đời: Vạn, Đột, tay thợ ảnh Quang Duy... Lý giải cho điều này, ông cười thanh minh: “Khổ quá, đấy là sơ suất. Vì khi viết tôi thích dùng tên nguyên mẫu nhân vật để dễ hình dung lời ăn tiếng nói của họ, để khắc hoạ tính cách cho chân thực hơn, sinh động hơn. Ai dè khi hoàn thiện bản thảo lại quên béng việc đổi tên khác cho nhân vật” [31]. Mặc dù sống xa quê từ năm mười bảy tuổi, nhưng những ấn tượng về quê hương có lẽ đã in đậm trong tâm khảm nhà văn, để rồi quay trở lại giúp ông tái hiện một cách chân thực, sinh động những nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Trong bài phỏng vấn: “Nhiệm vụ cao cả của nhà văn là kiếm tìm cái đẹp”, Dương Hướng tâm sự:
Trong sáng tác, tôi không có khái niệm nông thôn hay thành phố, nhưng nông thôn là niềm cảm hứng trong mọi sáng tác của tôi. Điều này thể hiện rõ trong “Bến không chồng”, “Bóng đêm mặt trời” và một số truyện ngắn “Đêm trăng”, “Khoảng trời riêng”... Tất cả các nhân vật trong các tác phẩm trên đều là những người thân trong gia đình, họ tộc và cảnh làng Đông quê tôi... Dù sống xa quê từ năm mười bảy tuổi nhưng khi cầm bút hình ảnh của những người thân luôn sống động cuốn hút tôi nhớ tới thời ấy, một thời của chú Nguyễn Vạn, nhân vật chính trong tiểu thuyết “Bến không chồng” là hình bóng chú họ tôi ngoài đời... Còn gia đình lão Kình trong tiểu thuyết “Bóng đêm mặt trời” cũng là người trong họ tộc tôi... [27].
      Cũng bởi những ấn tượng sâu đậm đó, cùng với tâm niệm “phải viết sao cho thật” [27] mà những trang viết của ông trở nên thật đến nỗi đọc tiểu thuyết người ta nhận ra ngay những nhận vật được chọn làm nguyên mẫu ngoài đời. Khi Bến không chồng được dựng thành phim, xem phim xong, người làng An Lệch “nhận ra ngay những nhân vật được thể hiện qua phim đó chính là cha, ông, thậm chí bản thân họ được Dương Hướng khắc hoạ, miêu tả quá sống động. Những nhân vật được đề cao thì tìm nhà văn để chúc mừng hỉ hả. Còn kẻ bị lột tả phơi bày trong nhân vật phản diện thì lại hậm hực cay cú: “ông ác quá đấy. Ông bê luôn cả chuyện của gia đình tôi vào tiểu thuyết - vào phim” [35]. Chính những ấn tượng sâu sắc đó về quê hương đã tạo cho nhà văn một vốn sống phong phú, sinh động về nông thôn, tạo nên cái tạng “nông dân một cục” - một thứ chất liệu chính làm nên phong cách riêng của chính ông. Vì thế, tác phẩm Dương Hướng dù không ồn ào về câu chữ nhưng lại chiếm được cảm tình của đọc giả một cách tự nhiên, nhất là những trang viết về nông thôn và nông dân.
      Như vậy, cùng với việc xây dựng nhân vật phản diện, lưỡng diện có số phận chìm nổi, có quá trình vận động phức tạp; vốn hiểu biết về nông thôn bắt nguồn từ những ấn tượng, và tình cảm sâu đậm với làng quê của mình đã trở thành những mặt mạnh của Dương Hướng trong sáng tạo tiểu thuyết, đặc biệt là ở phương diện nhân vật. Bởi thế, đọc tiểu thuyết Dương Hướng ta có cảm giác: truyện thật như chính cuộc đời.
  1.3.2.3 Dấu ấn cổ điển, sử thi trong tiểu thuyết Dương Hướng
      Nhìn chung, tiểu thuyết Dương Hướng vẫn còn lưu giữ khá nhiều yếu tố truyền thống, bên cạnh những cố gắng bứt phá để tiến kịp với tiểu thuyết hiện đại.Yếu tố truyền thống đó thể hiện qua dấu ấn cổ điển và sử thi được lặp lại khá nhiều trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Điều này khiến cho một số nhân vật trong tiểu thuyết của ông chưa thực sự là những nhân vật tiểu thuyết. Có thể dẫn ra những nhân vật tiêu biểu mang đậm dấu ấn này: Yến Quyên, Hoàng Kỳ Nam, Trần Tăng (Dưới chín tầng trời), Vạn (Bến không chồng)...
      Trong số những nhân vật cho thấy dấu ấn cổ điển và sử thi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật thì Yến Quyên là người cần được nhắc đến đầu tiên. Yến Quyên được Dương Hướng chăm chút xây dựng một cách hoàn hảo đến mức “thánh thiện”. Cô giống như “những bông sen hồng thơm ngát giữa bùn đất” [14, tr.341], một viên ngọc sáng giữa xã hội đầy biến động, phức tạp và nhiều cạm bẫy “dưới chín tầng trời”. Không chỉ có một vẻ đẹp ngoại hình làm mê đắm bao người, nhân vật này còn là kiểu mẫu của một thục nữ truyền thống: đẹp người, đẹp nết. Chồng đi bộ đội biền biệt cô vẫn một mực kiên trinh chờ đợi, dù bên cạnh lúc nào cũng có người tìm cách theo đuổi, chiếm đoạt. Bao nhiêu chông gai tầng tầng lớp lớp dựng lên vây quanh Yến Quyên cũng vững vàng vượt qua, một mình nuôi con và chăm lo cho gia đình. Dù làm dâu trong một gia đình là nạn nhân thảm thương trong phong trào cải cách ruộng đất, cô vẫn hăng hái tham gia phong trào hợp tác, sốt sắng với công việc của làng xã, và “có một tấm lòng bao dung, một tình yêu thật sự với người dân làng Đoài nghèo khổ” [14, tr.341]. Suốt một đời, trên mọi phương diện, Yến Quyên không có điều gì đáng chê, đáng trách. Con người như thế chỉ có thể được đúc ra từ khuôn mẫu của những nhân vật nữ chính diện trong các sáng tác cổ điển hay sử thi chứ thật khó tìm thấy trong hiện thực xã hội, cũng như trong tiểu thuyết hiện đại.
      Hoàng Kỳ Nam, con trai Yến Quyên cũng được xây dựng gần thánh thiện như mẹ. Trong công việc, cuộc sống hay tình yêu, dù cầm súng hay cầm bút, Nam đều không có gì đáng chê trách. Tình yêu của Nam dành cho Thương Huyền cũng thật cao đẹp và thánh thiện, một lần và mãi mãi, một mối tình đắm đuối, bất tận, ngoài nhục cảm. Tuy nhiên, nó lại trở nên lạc lõng giữa cuộc sống xô bồ ngày nay mà tiến gần hơn đến những chuyện tình lãng mạn trong văn học cổ điển.
      Trần Tăng và Vạn tuy tính cách không giống nhau, lại không nằm cùng một tuyến, nhưng đều là những nhân vật mang tính sử thi, sản phẩm của lịch sử. Trần Tăng, trên đại thể là một nhân vật tiêu cực, kẻ cơ hội, sa đoạ, tha hoá, đầu cơ chính trị, bê tha trong lối sống, nhếch nhác trong đạo đức... Thế nhưng, trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, ông ta lại là đại diện cho cái góc khuất của một nhân vật lớn mà Dương Hướng muốn hướng đến: nhân vật lịch sử. Ở Trần Tăng, người đọc dễ nhận ra những mặt trái, những lầm lạc một thời của con thuyền dân tộc. Trần Tăng mang tầm vóc sử thi là vì lẽ đó. Còn Nguyễn Vạn (Bến không chồng), thì lại là nạn nhân của lịch sử. Bi kịch của Nguyễn Vạn là bi kịch xuất phát từ suy nghĩ lầm lạc, giáo điều, từ niềm tin và những quan niệm giản đơn về lịch sử xã hội. Vạn nuôi trong mình một khối lý tưởng cứng nhắc về xã hội, sẵn sàng làm tất cả vì lý tưởng đó. Anh muốn biến mình thành “thánh nhân” nên anh tự ép xác mình trước những nhu cầu vật chất tầm thường cũng như tình cảm và thể xác: “Trên đời này còn bao nhiêu chuyện ràng buộc: danh dự, uy tín...” [13, tr.411]. Những suy nghĩ của Vạn là những suy nghĩ mang tính sử thi, điển hình cho những “chuẩn mực” đạo đức một thời. Nhưng những chuẩn mực đó lại là cái đã qua, nó không còn phù hợp trong đời sống hiện tại, cho nên nó biến con người trở thành nạn nhân của lịch sử, bị bánh xe lịch sử nghiền nát khi thời cuộc đổi thay mà họ không kịp thích ứng.
      Ngoài những nhân vật nêu trên, ta cũng có thể nhận thấy dấu ấn sử thi, cổ điển trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Dương Hướng qua những nhân vật: Hoàng Kỳ Trung, Thu Cúc, Đào Vương... Bởi xây dựng những nhân vật mang tầm thời đại và tính cổ điển như vậy nên chúng ta khó có thể nhận ra được sự vận động trong tính cách và số phận nhân vật. Họ trở nên “đông cứng” trong khuôn mẫu của mình, nguyên phiến, thuần nhất trong tính cách. Vì thế những nhân vật này không gây nhiều thú vị đối với người đọc, nó làm giảm đi tính chất bất ngờ của tiểu thuyết. Tuy đặc điểm này trở thành một hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết, nhưng ta không thể phủ nhận vai trò của nó trong việc góp phần tái hiện diện mạo lịch sử xã hội của dân tộc ta hơn nửa thế kỷ qua - điều nhà văn muốn hướng đến.
      Tóm lại, xuất phát từ cái nhìn thẳng thắn, trực diện về cuộc sống và quan niệm biện chứng, sát thực về con người, Dương Hướng đã tạo nên một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú. Thế giới nhân vật đa dạng đó được nhà văn tái hiện, xây dựng từ nhiều góc độ và bút pháp khác nhau, tạo nên những loại hình nhân vật khác nhau trong tác phẩm. Nhưng dù nhân vật được nhìn từ góc độ nào, thể loại hay phong cách; xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật gì thì qua đó ta vẫn nhận ra tính chất tiểu thuyết của tác phẩm từ phương diện nhân vật. Thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình, Dương Hướng muốn nói lên “số phận” không chỉ của một làng quê nào đó, mà là “số phận của dân tộc, số phận nhân dân, đất nước và đời sống long đong của những mảnh đời trôi dạt” [11, tr.28]. Như vậy, với những quan niệm nghệ thuật và những đặc điểm trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Dương Hướng, chúng ta có thể thấy được phần nào những nỗ lực của nhà văn trong việc góp phần tạo nên diện mạo của văn xuôi Việt Nam sau 1986 nói riêng, văn học Việt Nam nói chung.

Chương 2
 KẾT CẤU VÀ HÌNH TƯỢNG KHÔNG - THỜI TRONG
TIỂU THUYẾT DƯƠNG HƯỚNG
2.1 Kết cấu trong tiểu thuyết Dương Hướng
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương diện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng, bộc lộ chủ đề và tư tưởng các tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ [9, tr.157].
      Có thể nói, nếu mỗi tác phẩm là một “sinh mệnh” thì kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể tương ứng với nội dung cụ thể của tác phẩm, do đó, nó là vô hạn. Mỗi nhà văn, tuỳ nhận thức, tài năng và phong cách của mình sẽ kết cấu tác phẩm theo những ý đồ sáng tạo riêng. Với Dương Hướng, nhà văn đã tổ chức các tiểu thuyết của mình theo hai dạng thức tiểu biểu: kết cấu ghép mảnh và kết cấu trùng điệp.
2.1.1 Kết cấu ghép mảnh
      “Kết cấu ghép mảnh” là một trong những phương diện quan trọng của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. Nó cho phép nhà văn thể hiện những liên hệ cốt lõi - tuy không dễ nhìn thấy - giữa các hiện tượng; cho phép họ chiếm lĩnh thế giới trong tính đa tạp, mâu thuẫn, lưu chuyển và thống nhất của nó.
      Vậy, “mảnh” ở đây được hiểu thế nào? “Mảnh” là các phạm vi, các yếu tố cấu thành nên một chỉnh thể, tuy nhiên, mỗi “mảnh”, tự bản thân nó cũng mang tính chỉnh thể tương đối. Chẳng hạn như, các yếu tố: nhân vật, không - thời gian, cốt truyện... là những “mảnh” làm nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Nhưng mỗi yếu tố đó cũng là một chỉnh thể bao gồm trong đó những “mảnh” nhỏ hơn. Vì thế, “mảnh” có nhiều cấp độ. Số lượng “mảnh” trong mỗi cấp độ chỉnh thể rất đa dạng, phong phú và biến thiên, nó tương ứng với nhiều điểm nhìn và cách nhìn các nhau, từ đó góp phần thể hiện muôn mặt của cuộc đời. Và để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật, các “mảnh” đó phải được ghép với nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, đối lập hay bổ sung. Nếu các “mảnh” được lắp ghép với nhau không theo trật tự tuyến tính mà ngổn ngang, đảo ngược, đan cài theo ý đồ của tác giả khiến cho những tình huống, cảnh ngộ, biến cố, không gian, thời gian, tâm trạng... như không có quan hệ, liên đới được xích lại gần nhau thì chỉnh thể đó có kiểu kết cấu ghép mảnh.
      Hiện thực cuộc sống vốn bộn bề, phức tạp, nhiều góc khuất, nhà văn nếu chỉ nhìn nó bằng con mắt giản đơn, một chiều thì khó có thể khám phá một cách đầy đủ, sinh động. Thức nhận được điều đó, Dương Hướng cũng như nhiều nhà văn khác cùng thời đã biểu hiện và nhận thức thế giới theo tinh thần phân mảnh thông qua sáng tác của mình. Từ quan niệm thế giới là những mảnh vỡ và mỗi người cũng chỉ là một mảnh vỡ dị biệt, Dương Hướng đã tạo nên một xã hội đa dạng, phức tạp trong tiểu thuyết của mình. Trong đó, Dưới chín tầng trời là tác phẩm tiêu biểu, thể hiện rõ nhất cho kiểu kết cấu ghép mảnh của tiểu thuyết Dương Hướng. Để hiểu rõ hơn về kết cấu ghép mảnh trong tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết Dương Hướng nói riêng, chúng ta tiến hành khảo sát tiểu thuyết Dương Hướng theo trình tự: Các “mảnh ghép” của tiểu thuyết và mối quan hệ giữa các “mảnh” đó.
  2.1.1.1 Các “mảnh ghép” của tiểu thuyết
      Ta đã biết, “mảnh” có nhiều cấp độ. Với một tác phẩm văn học, cấp độ lớn nhất là thế giới nghệ thuật, nó được tạo nên từ các mảnh: nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian, nghệ thuật trần thuật... Tuy nhiên, bản thân mỗi mảnh này cũng được tạo thành từ nhiều mảnh khác nhỏ hơn. Ví dụ như: trong nhân vật thì có nhân vật chính, phụ, rồi trong nhân vật chính, phụ lại có nhân vật chính diện, phản diện và lưỡng diện...; trong cốt truyện thì có các chi tiết, sự kiện...; hay trong nghệ thuật trần thuật có người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu... Để làm rõ kết cấu ghép mảnh trong tiểu thuyết Dương Hướng, chúng ta tiến hành phân tích một số “mảnh” trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Dương Hướng, từ đó thấy được chúng được lắp ghép như thế nào từ các yếu tố nhỏ hơn.
      Trước hết là “mảnh” cốt truyện của tiểu thuyết. Trong ba tiểu thuyết của Dương Hướng, chỉ có tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là có cốt truyện được tổ chức theo kết cấu ghép mảnh, hai tiểu thuyết còn lại cốt truyện được tổ chức theo trật tự thời gian. Ở tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, cốt truyện bị xáo tung hết cả, bị phân nhỏ thành những miếng ghép - những mảnh ghép của cuộc sống. Và từ đó, muôn mặt của xã hội “dưới chín tầng trời” đã được Dương Hướng tái hiện bằng cách đan cài những câu chuyện không liên hoàn với nhau. Với năm trăm trang, cuốn tiểu thuyết gồm ba mươi ba chương, được lắp ghép và cấu trúc theo các khối đời, vừa độc lập với nhau, vừa xen cài vào nhau. Mỗi chương một nhan đề riêng, một câu chuyện riêng, lắp ghép nhiều đoạn sống khác nhau của các nhân vật như một bộ phim nhiều tập. Qua đó, ta bắt gặp nhiều cảnh sống, nhiều cảnh đời khác nhau, từ bi kịch của dòng họ Hoàng Kỳ, của gia đình thương nhân Đức Cường, chuyện tình trái ngang của Thương Huyền, chuyện khát dục của mụ Cam, sự háo danh, hãnh tiến của Tuyết, sự chuyên quyền của Trần Tăng,... cho đến sự phất lên như diều của Đào Kinh. Kết cấu ghép mảnh trong Dưới chín tầng trời cũng cho thấy tính chất “thừa” trong cốt truyện của tiểu thuyết. Yếu tố “thừa” này nằm ngoài cốt truyện, nó gắn với những suy nghĩ, triết lý về cuộc đời. Với ba mươi ba chương mà mỗi chương là một mảnh ghép khác nhau để tạo nên nội dung câu chuyện, nhưng các chương đó lại không dính chặt vào nhau, nói cách khác, giữa các miếng ghép đó không được tổ chức một cách “sít sao” theo sự vận động của cốt truyện và tính cách, nó chứa đựng những yếu tố “thừa”, đó là những phân tích cặn kẽ về diễn biến tình cảm, trình bày tường tận về tiểu sử nhân vật, đi sâu vào suy nghĩ của nhân vật hay nêu lên những phong tục văn hoá... Ví dụ như: đoạn nói về tiểu sử của Đào Kinh; đoạn làm rõ nguồn gốc cái tên của Đào Kinh và Đào Vương; đoạn trình bày những chuẩn mực của người con gái; đoạn miêu tả về cuộc gặp mặt các trí thức tỉnh nhà, cũng như trình bày rõ về bài phát biểu của Đào Kinh trong cuộc gặp gỡ; những đoạn cho thấy những suy nghĩ riêng của các nhân vật như Nam, Đào Kinh, Trần Tăng...về con người, về các mối quan hệ xung quanh họ, những chiêm nghiệm về cuộc đời và thời cuộc của họ; hay những đoạn cho thấy những dằn vặt đầy đau đớn của thương gia Đức Cường khi lái con thuyền gia đình đi sai hướng... Đó đều là những đoạn không liên quan trực tiếp đến cốt truyện, nhưng lại là những yếu tố rất quan trọng đối với tiểu thuyết, góp phần xác lập đặc điểm tiểu thuyết. Nó giúp chúng ta thấy rõ hơn tâm lý, tính cách, cũng như những đổi thay số phận của nhân vật. Không những thế, qua những yếu tố “thừa” đó, chúng ta còn thấy được diện mạo đời sống được tái hiện trong tác phẩm.
      Tiếp theo là “mảnh” nhân vật. Hầu như ở cả ba tiểu thuyết của Dương Hướng các nhân vật đều được tổ chức theo hình thức ghép mảnh. Chỉnh thể nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng được tổ chức từ những mảnh ghép khác nhau: nhân vật chính, nhân vật phụ, dưới chúng còn có nhân vật chính diện, phản diện, lưỡng diện... Từ quan niệm mỗi con người là một mảnh vỡ dị biệt, mỗi người có một số phận riêng, Dương Hướng đã sắp xếp cạnh nhau những nhân vật đồng tuyến hay khác tuyến, đối lập hoặc bổ sung... nhằm tạo nên bức tranh muôn màu của cuộc sống, với đủ mọi hạnh phúc, khổ đau của kiếp người. Trong đó, các nhân vật đồng tuyến khi đứng cạnh nhau chưa hẳn đã bổ sung cho nhau, các nhân vật khác tuyến cũng không nhất thiết đối chọi nhau, những người yêu nhau, sống cạnh nhau chưa hẳn đã hạnh phúc, những người có mối quan hệ ràng buộc với nhau chưa chắc đã nảy sinh tình cảm... Bởi lẽ, họ được ghép lại với nhau nhưng mỗi nhân vật được xem như một mảnh riêng biệt trong xã hội, vì thế giữa họ có những chỗ “khập khiễng” nhất định. Chính sự “khập khiễng” này đã tạo ra bi kịch cho con người, tạo nên sự trống vắng, cô đơn và nỗi đau của họ. Có thể thấy rõ điều này qua mối quan hệ giữa Nghĩa và Hạnh, Vạn và chị Nhân, Vạn và mụ Hơn (Bến không chồng), Bức và Nga, Đô và Tuyết (Bóng đêm và mặt trời), Nam và Tuyết (Dưới chín tầng trời)... Đôi khi, sự “khập khiễng” ấy còn là nguyên nhân dẫn đến việc chết mòn của đời sống tình cảm giữa các nhân vật với nhau, như giữa Đô và Tuyết (Bóng đêm và mặt trời), hay Nam và Tuyết (Dưới chín tầng trời) - sống cạnh nhau mà không thể hoà hợp vì giữa họ không tìm thấy tiếng nói chung.
      Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết còn được tạo nên từ “mảnh” không gian. Tiểu thuyết Bóng đêm và mặt trời đã phần nào thể hiện kiểu kết cấu này khi Dương Hướng tạo nên sự chuyển đổi giữa ba vùng không gian: nông thôn, chiến trận và thành phố. Ba vùng không gian này tạo nên ba miếng ghép lớn trong tác phẩm, ở đó, ta thấy được số phận của các nhân vật trong những hoàn cảnh khác nhau, để rồi khi ghép chúng lại ta nhận ra những biến cố thăng trầm của nhân vật, của lịch sử. Tuy nhiên, Dưới chín tầng trời vẫn là tác phẩm cho thấy rõ nhất kiểu kết cấu ghép mảnh về phương diện không gian. Trong tiểu thuyết này, với ba mươi ba chương, mỗi chương có một nhan đề riêng và có sự chuyển dịch không gian liên tục từ bến cảng, thành phố, nhà hàng, khách sạn, đến làng Đoài, rồi chiến trận, sân bay, cửa khẩu... Các kiểu không gian cứ đan xen nhau xuất hiện trong tác phẩm tạo cảm giác cuốn tiểu thuyết như là sự lắp ghép nhiều mảnh khác nhau của cuộc sống mà mỗi mảnh lại là những môi trường khác nhau để nhân vật bộc lộ mình.
      Ngoài ra, góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết còn có “mảnh” thời gian. Dương Hướng đã sử dụng nhiều thủ pháp như hồi tưởng, đan cài thời gian giữa thực và ảo, giữa hiện tại và quá khứ... để chuyển tải hiện thực cũng như thế giới nội tâm nhân vật. Tiêu biểu cho kiểu kết cấu này ở mảnh thời gian cũng là tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Trong tiểu thuyết này, việc sắp xếp các chương không theo trật tự thời gian mà xen lẫn giữa hiện tại và quá khứ, quá khứ gần và quá khứ xa... đã góp phần tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc lần tìm, khám phá những sự kiện, biến cố xảy đến trong cuộc đời các nhân vật.
  2.1.1.2 Quan hệ giữa các “mảnh”
      Ở cấp độ thế giới nghệ thuật, các mảnh ghép tạo nên nó đều có quan hệ bổ sung cho nhau để cùng nhau tạo nên một tác phẩm có giá trị. Còn đối với cấp độ các yếu tố của thế giới nghệ thuật đó thì mối quan hệ giữa các mảnh thế nào còn tuỳ thuộc vào ý đồ của tác giả. Vì thế, giữa các “mảnh” của chúng có khi là quan hệ bổ sung, bồi nhấn, cũng có khi là quan hệ đối lập. Khi nhằm hướng đến một nội dung thì các mảnh có quan hệ bổ sung cho nhau, ngược lại, lúc nào cần cho thấy quá trình vận động của nhân vật thì cần đến những mảnh ghép có tính đối lập nhau. Ví dụ như, tiểu thuyết Dưới chín tầng trời được tổ chức thành những mảnh ghép khác nhau, những mảnh ghép đó không dính chặt vào nhau nhưng cũng không hoàn toàn độc lập với nhau mà chúng có quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó không chỉ là sự bồi nhấn, bổ sung cho nhau nhằm thể hiện một nội dung (ví dụ như chương 1, 2, 5, 31, 32, 33: cùng nói về hiện tại, đồng thời chúng là sự nối tiếp nhau; chương 4, 7, 11, 12, 13, 17, 23, 24, 27: cùng nói về số phận của gia đình thương nhân Đức Cường và Thu Cúc...), mà còn có sự đối lập nhau. Sự bổ sung ở đây là bổ sung đồng đẳng, nghĩa là những mảnh ghép này có vai trò như nhau trong một tổ chức chỉnh thể, nói cách khác, chúng song song với nhau, bổ sung mà không phụ thuộc. Còn sự đối lập là do tác giả đã trình bày những bức tranh, những hoàn cảnh trái ngược, những mảnh đời khác nhau, những đổi thay của số phận trong những không gian và thời gian khác nhau của các nhân vật. Đó có thể là sự đối lập giữa gia đình thương nhân Đức Cường với Thu Cúc trong và sau chiến tranh ở miền Nam, là sự đối lập giữa gia tộc Hoàng Kỳ với Trần Tăng và Đào Kinh ở miền Bắc... Có thể nói, kiểu kết cấu ghép mảnh gây hiệu ứng tích cực với nghệ thuật nhưng không quan phương, sử thi mà rất tiểu thuyết. Nó góp phần tạo nên nhiều điểm nhìn, cách nhìn khác nhau về hiện thực, thể hiện nhiều lát cắt của đời sống, từ đó, diện mạo đa dạng, phức tạp của cuộc sống hiện lên một cách sống động nhất.
      Kiểu kết cấu ghép mảnh này trong tiểu thuyết những năm đầu sau đổi mới, kể cả những tiểu thuyết được xem là chất lượng, thực sự chưa được các nhà văn khai thác nhiều. Các tác giả chủ yếu vẫn sử dụng những kết cấu đã có trong giai đoạn trước để phản ánh một thời kỳ lịch sử của dân tộc. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu là tác phẩm được kể theo kết cấu truyền thống, nghĩa là các sự kiện, số phận nhân vật được kể theo trật tự tuyến tính. Hành động nhân vật phát triển theo cách tổ chức, sắp xếp của nhà văn nhưng tuân thủ nghiêm ngặt theo quá trình phát triển số phận, tính cách nhân vật. Kiểu kết cấu này đem lại hiệu quả cao khi nhà văn muốn nhấn mạnh quá trình phát triển của mạch truyện, nhấn mạnh logic khách quan và đặc biệt diễn tả mối quan hệ giữa các sự kiện. Song Lê Lựu không hướng tới mô hình lịch sử - sự kiện, mà hướng tới mô hình lịch sử - tâm hồn. Lê Lựu tái hiện lịch sử tâm hồn của cả thế hệ như Giang Minh Sài: anh hùng trong sự nghiệp chung nhưng đầy bi kịch trong đời thường. Ở Sài có sự tha hoá do tự anh đánh mất bản ngã của mình “ngay cả trong những suy nghĩ, ước muốn khát khao chính đáng và đời thường nhất” [12], và sự trả giá cho những ngộ nhận ấu trĩ, không tưởng, nhu nhược trong anh. Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường thì sử dụng kiểu kết cấu để ngỏ. Đây là cách nhà văn đưa ra đối thoại ngầm và sự đồng sáng tạo của độc giả. Văn chương vốn không có những lời giải thích rõ ràng, những đáp số có sẵn về thân phận con người. Mỗi nhà văn sẽ có một cách cắt nghĩa khác nhau về con người, và mỗi người đọc có thể tìm thấy một ý nghĩa riêng về tác phẩm tuỳ theo tầm đón nhận của họ. Tiểu thuyết kết thúc dang dở khi những mâu thuẫn bắt đầu được hạ nhiệt và những bóng đen hắc ám bắt đầu lộ ra mặt, mối tình Tùng - Đào bắt đầu có tín hiệu tốt đẹp và kết thúc bằng việc nhân vật Minh lặng lẽ khóc sau khi làm cầu nối hòa giải cho hai người. Tuy nhiên, với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã sử dụng rất hiệu quả kiểu kết cấu này nhất là ở phương diện thời gian để thể hiện những vỡ nát trong tâm hồn người lính sau chiến tranh. Chiến tranh đi qua không chỉ gây ra bao cảnh chết chóc, chia lìa, không chỉ để lại những vết thương trên da thịt mà nó còn tạo nên những bi kịch trong tình yêu và vụn vỡ trong tâm hồn không gì hàn gắn nổi. Đó là điều mà bất cứ ai đọc tác phẩm này đều có thể cảm nhận được. Với kỹ thuật dòng ý thức, tác phẩm được tổ chức không theo trật tự thời gian tuyến tính mà có sự đan xen, chồng chéo, đứt gãy về thời gian. Ý thức và ký ức của nhân vật quy định thời gian của truyện. Nhân vật kể lại câu chuyện thông qua những hình ảnh hiện về trong ký ức nên những sự kiện trong câu chuyện được kể không nối tiếp nhau, không có sự liền mạch mà đó chỉ là chuỗi những hình ảnh đứt đoạn của những ám ảnh chiến tranh hiện về trong tâm tưởng nhân vật Kiên. Song, nếu kiểu kết cấu này trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chủ yếu thiên về phương diện thời gian, thì với Dưới chín tầng trời, Dương Hướng đã thể hiện nó trên hầu khắp mọi phương diện, từ việc xáo trộn trục thời gian, đến việc dịch chuyển không gian, việc sắp xếp, bố trí các nhân vật bị ràng buộc với nhau mà không hoà hợp, thương yêu nhau mà chịu chia cách... Vì thế, với kiểu kết cấu này sau mười lăm năm vắng bóng, Dương Hướng đã chứng tỏ một sự nỗ lực “vượt dốc” trong nghệ thuật tiểu thuyết của mình.
2.1.2 Kết cấu trùng điệp
      Kết cấu trùng điệp (lặp) là loại kết cấu tồn tại khá phổ biến trong nhiều tác phẩm văn học. Việc nhắc lại một sự kiện, một chi tiết, một hình ảnh trong tác phẩm là cách người nghệ sĩ muốn tô nhấn, hướng người đọc tri nhận ý nghĩa của hình tượng, trên cái nền đó, tác giả có thể dẫn dắt người đọc suy nghĩ theo ý mình.
      Trong tiểu thuyết Dương Hướng, kết cấu trùng điệp cũng là loại kết cấu khá tiêu biểu. Kiểu kết cấu này thể hiện khá rõ trong cả ba tiểu thuyết của nhà văn thông qua việc lặp lại các yếu tố: không gian, thời gian, quan niệm và ý nghĩ của nhân vật.
      Kiểu kết cấu trùng điệp về không gian xảy ra khá nhiều trong tiểu thuyết Bến không chồng. Không gian ven sông nơi có “vạt cỏ bằng” ghi dấu địa điểm lần đầu tiên Nghĩa và Hạnh chính thức thành chồng vợ - xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm. Việc nhắc đi nhắc lại đến năm lần hình ảnh “vạt cỏ bằng” trong tác phẩm này mang nhiều ý nghĩa. Nó không chỉ là minh chứng cho tình yêu của hai người, mà còn trở thành chứng nhân lên án sâu sắc sự khắc nghiệt của tập tục, truyền thống gia đình đã gây ra bao đau xót, bất hạnh cho con người. Hạnh và Nghĩa chỉ là một trong số họ. Ngoài ra, những địa điểm: cầu Đá Bạc, “bến không chồng”, Cống Linh, ... cũng trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Đó là những không gian thân thuộc với người dân làng Đông, nhưng cũng là chứng nhân cho những thăng trầm lịch sử mà họ đã trải qua, cho những nỗi đau mất mát lớn lao mà biết bao thế hệ phụ nữ làng Đông phải gánh chịu.Với Bóng đêm và mặt trời, không gian tiếng sáo diều được lặp lại như một biểu tượng cho sự khao khát về cuộc sống hạnh phúc, tự do của con người. Tiếng sáo ấy bay vút lên cao, lan toả trong không gian giúp cho con người vượt thoát khỏi cuộc sống tối tăm, quẫn bách và hướng tới ánh sáng của niềm tin, hi vọng vào tương lai. Việc trở đi trở lại miêu tả biệt thự của gia đình thương nhân Đức Cường (Dưới chín tầng trời) trong chín chương cũng là biểu hiện của kiểu kết cấu trùng điệp về không gian. Tuy nhiên, mỗi lần trở lại với không gian này lại chúng ta lại nhận ra một sự đổi thay. Dường như, Dương Hướng muốn thông qua sự biến đổi của không gian để nói lên sự đổi thay của lòng người và cuộc đời.
      Cùng với sự trùng điệp về không gian, trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có sự trùng điệp về thời gian. Ví như, việc nhắc lại câu nói: “Nay mười tư mai đã là rằm” đến ba lần ở các trang: 45, 46, 47 mang hàm nghĩa chỉ sự lặp lại về một thời gian được chờ đợi: đó là thời điểm mà Hoàng Kỳ Bắc thường trở về thả đèn trời sau mỗi chuyến đi buôn, đồng thời nó cũng thể hiện nỗi ngóng trông, mong nhớ của người ở nhà dành cho người đi xa?
      Quan niệm của nhân vật về cuộc đời cũng là một yếu tố được lặp lại trong tiểu thuyết Dương Hướng. Việc nhắc lại câu: “thời thế, thế thời phải thế” ba lần ở các trang: 33, 35, 345 trong tác phẩm Dưới chín tầng trời là một ví dụ. Thông qua lời nói của ba nhân vật, những đại diện tiêu biểu cho thời đại: người anh hùng trong quân đội (Hoàng Kỳ Trung), người cán bộ cao cấp của nhà nước (Trần Tăng) và doanh nhân thành đạt (Đào Kinh) khi họ đã ở bên kia con dốc cuộc đời cho thấy một sự chiêm nghiệm, triết lý về lẽ đời, con người và thời cuộc... của tác giả.
      Trong các tiểu thuyết của mình, nhất là trong Dưới chín tầng trời, Dương Hướng đã để cho nhân vật thông qua ý nghĩ của họ để nhắc lại, tổng kết lại nhiều lần những sự kiện xảy ra. Hoàn cảnh khốn cùng của gia đình cứ trở đi trở lại với tần số cao trong liên tiếp bốn trang qua những dằn vặt, suy tư của thương gia Đức Cường đã cho thấy bi kịch của một kiếp người, một gia đình, một lớp người, một thời đại, từ đó có sức tố cáo mạnh mẽ một hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn - sự đổi thay của lòng người khi thời thế thay đổi. Hoàng Kỳ Nam cũng luôn nhớ lại những sự kiện xảy ra với những con người làng Đoài, những mối quan hệ ràng buộc họ với nhau; còn Đào Kinh thì không bao giờ quên được nàng Cam đã cắm sừng y và sinh ra Măng - đứa con gái của Trần Tăng - kẻ suốt đời cứ đổ bóng xuống cuộc đời Kinh mà y không thể vượt thoát được... Việc nhắc lại những sự kiện ấy trong Dưới chín tầng trời là minh chứng cho kiểu kết cấu trùng lặp trong tiểu thuyết Dương Hướng, nhờ đó, người đọc có thể dễ dàng theo dõi cốt truyện. Tuy nhiên, nó khiến cho tác phẩm này thành ra vi phạm nghệ thuật tiểu thuyết ở tính chất bất ngờ của thể loại - mọi sự kiện, diễn biến của câu chuyện đều đã được kiến giải và nằm trong tầm kiểm soát của người viết. Nhưng nhờ vậy, tiểu thuyết Dương Hướng lại có khả năng tiếp cận được với mọi loại người đọc trong xã hội. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy khi đọc tiểu thuyết Dương Hướng, góp phần làm nên phong cách của nhà văn.
      Kiểu kết cấu trùng điệp cũng được thể hiện khá rõ trong truyện ngắn Hương hoa gạo của nhà văn. Truyện ngắn này được chia thành năm đoạn nhỏ. Trừ đoạn hai kể về quá khứ xa nhất - thời chiến tranh, các đoạn còn lại từ quá khứ gần đến hiện tại sau khi hoà bình lập lại đều mở đầu bằng câu: “Chúng nó vẫn chưa về!” Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại tạo nên một âm hưởng buồn da diết của tác phẩm và để lại một nỗi day dứt khôn nguôi trong lòng người đọc. Với một kết cấu như vậy, Dương Hướng đã làm trào dâng trong ta nỗi xót thương cho số phận nhân vật, những con người đã đi qua cuộc chiến mà nỗi mất mát vẫn còn đeo đẳng mãi họ. Bằng điệp khúc “Chúng nó vẫn chưa về” cứ trở đi trở lại trong tác phẩm, tác giả cũng giúp chúng ta thức nhận được một điều, đó là: Giá trị của hoà bình, của cuộc sống hôm nay phải đổi bằng máu, nước mắt và cả sự mòn mỏi đợi chờ của những người mẹ, người phụ nữ... Tuy nhiên, do chịu sự chi phối của đặc điểm thể loại nên kiểu kết cấu này ở truyện ngắn chỉ dừng lại ở quy mô là chi tiết được lặp lại ở các đoạn, chứ chưa phải là sự lặp lại của một loạt sự kiện thông qua những đoạn tổng kết trong suy nghĩ của nhân vật như ở tiểu thuyết, đặc biệt là Dưới chín tầng trời.
      Tóm lại, sử dụng kết cấu trùng điệp, các nhà văn có thể chuyển tải ý đồ của mình thông qua việc lặp lại một số yếu tố nhằm gây sự chú ý đối với người đọc, khiến họ phải suy nghĩ về ý nghĩa của sự tô nhấn đó, góp phần giải mã tác phẩm. Với Dương Hướng, từ kiểu kết cấu trùng điệp được ông sử dụng trong các sáng tác, chúng ta nhận ra phần nào tính chất tiểu thuyết cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn này.
2.2 Hình tượng không - thời gian trong tiểu thuyết Dương Hướng
      Không - thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù thẩm mỹ của văn học, một trong những yếu tố trong kết cấu tác phẩm. Tuy nhiên, ở nhiều tác phẩm, hình tượng không - thời gian trở thành một nét đặc sắc và mang một ý nghĩa nhất định. Do đó, với những tác phẩm này, chúng ta có thể tách riêng hình tượng không thời gian ra khỏi hệ thống kết cấu của tác phẩm để đi sâu, làm rõ hơn những ý nghĩa của nó. Tiểu thuyết Dương Hướng là những sáng tác có thể tiến hành theo cách thức như vậy.
      Trong một tác phẩm, việc tổ chức không gian, thời gian như thế nào có ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị của tác phẩm đó. Thông qua việc tổ chức không - thời gian nghệ thuật, tác giả phần nào thể hiện quan điểm, dụng ý nghệ thuật cũng như phong cách của mình. Vậy, không - thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng được tổ chức như thế nào và mang lại giá trị gì cho tác phẩm?
2.2.1 Hình tượng không gian
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật là:
Hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó... Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan... Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học… [9, tr.160].
      Nếu trong văn học giai đoạn trước chỉ có không gian ngột ngạt, tù đọng, bức bối, xung đột (Tắt đèn - Ngô Tất Tố, Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê - Vũ Trọng Phụng...) thì trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, đặc biệt là trong tiểu thuyết Dương Hướng có sự mở rộng không gian về nhiều chiều, đa dạng hơn nhằm đưa đến cho người đọc bức tranh hiện thực, sống động về cuộc sống xã hội và con người hiện đại.
  2.2.1.1 Các kiểu không gian
      2.2.1.1.1 Không gian hiện thực
      Trong tiểu thuyết của ông, không gian hiện thực đó có thể là không gian làng quê, không gian chiến trận, không gian thành thị, không gian biên giới...
      Không gian làng quê trong tiểu thuyết Dương Hướng là nơi lưu giữ hành trình tâm hồn, cuộc đời nhân vật. Nó thường bó hẹp trong đời tư của gia đình, dòng họ và có khi chỉ là một chiếc giường, một góc bếp, một căn phòng, một ngôi nhà... Ở đó, thiện - ác, tốt - xấu, trắng - đen, thấp hèn - cao cả đan xen vào nhau. Con người luôn phải đối diện với chuyện cơm áo thường ngày, đói nghèo, bảo thủ, trì trệ và cả bao điều vặt vãnh, bình thường... Con người bộc lộ mọi suy tư của mình ở đó, cả nỗi đau và khát vọng giăng mắc ghi lại dấu ấn về đời họ. Qua ngòi bút của nhà văn, không gian làng Đông (Bến không chồng), làng Đoài (Dưới chín tầng trời), Nguyệt Hạ (Bóng đêm và mặt trời) hiện lên với những đặc trưng của làng quê Việt Nam. Ở đó, có không gian yên bình của bến nước, cây đa, cổng làng, miếu thờ, đình làng, luỹ tre xanh, dòng sông, đồng ruộng... nhưng đằng sau bức tranh phong cảnh yên bình, nên thơ ấy đã chứa trong nó những nỗi đau âm ỉ, những xung đột đấu tranh đẫm máu, nước mắt bởi những thiên kiến, lời nguyền, hận thù cùng với những vất vả, tù đọng, không lối thoát... Qua việc xây dựng không gian làng quê, ta có thể thấy được phần nào đời sống của người nông dân ở những làng quê thân thuộc, thấy được những vẻ đẹp mà thiên nhiên và con người đã mang lại cho những làng Đông, làng Đoài hay làng Nguyệt Hạ trong các tác phẩm, đồng thời nhận ra tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm đối với quê hương.
      Bức tranh không gian hiện thực không chỉ có không gian làng quê mà còn có cả không gian chiến trận được hiện lên với những ác liệt, tàn khốc của nó, bởi: “chiến tranh là thời buổi ngược đời”, “là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” [19, tr.33]... Ta có thể nhận ra tính chất khốc liệt của chiến tranh qua bức tranh về trận địa sau loạt pháo 105 trong Bóng đêm và mặt trời:
Bom pháo cày xới đất đá ngổn ngang. Mùi da thịt cháy lẫn mùi thuốc bom pháo khét lẹt. Đô lần mò trong đêm tối rờ rẫm tìm đồng đội. Tất cả đã chết trong im lặng. Chết trong lòng đất, chết trên giao thông hào... Đồng đội của anh người bị cụt đầu, cụt chân, bị vùi lấp nửa người, người bị cháy thui, người nằm co quắp trên đất. Đô không còn nhận ra ai với ai. Đô áp tai xuống từng cái xác lắng nghe cố tìm kiếm sự sống trong cái thế giới đầy chết chóc [13, tr.183].
      Bằng việc tái hiện không gian chiến trận, Dương Hướng một lần nữa đưa độc giả trở về với những tháng ngày hào hùng mà đau thương của dân tộc.
      Một trong những nét vẽ góp phần tạo nên bức tranh về không gian hiện thực trong tiểu thuyết Dương Hướng phải kể đến không gian thành thị. Không gian thành thị thể hiện trong hầu hết cả ba tiểu thuyết của ông, tuy nhiên, đây không phải là không gian được nhà văn tập trung bút lực như ở không gian làng quê. Hiện lên trong tác phẩm Bến không chồng là hình ảnh ngôi nhà của Thuỷ, là công viên - nơi Thuỷ quan hệ với một người đàn ông qua đường... Với Bóng đêm và mặt trời thì đó là khung cảnh thành phố trong những năm chiến tranh vào một buổi chiều oi nồng, “bầu trời xám xịt” [13, tr.145], với “những khu nhà đổ vì bom”, “gạch ngói còn ngổn ngang” [13, tr.147], ngôi nhà của Đặng Xuân Tòng với “chiếc cổng xây khá kiên cố” [13, tr.148], khá rộng nhưng chỉ còn trơ lại chiếc giường và bộ bàn ghế trống trơn; là ngôi nhà của mẹ con Nga mười tám năm sau, ngôi nhà chật chội của hoạ sĩ Thuần, phố xá với những hàng quán thời kinh tế thị trường... Ở Dưới chín tầng trời thì không gian thành thị được mở rộng ra nhiều thành phố chứ không chỉ ở một thành phố như ở hai tiểu thuyết kia, với nhiều nhà hàng, khách sạn, quán ăn, bến cảng, sân bay, biệt thự... từ Bắc vào Nam, mà đặc biệt là ở những thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng... Dù không đi vào miêu tả chi tiết, nhưng chỉ vài nét phác họa về kiểu không gian này, Dương Hướng đã phần nào thể hiện một cái nhìn quán xuyến về cuộc sống, thế thái nhân tình thông qua không gian mà nhân vật sinh sống.
      Nét vẽ cuối cùng trong bức tranh về không gian hiện thực của tiểu thuyết Dương Hướng chính là không gian biên giới. Đây là kiểu không gian chỉ xuất hiện trong tác phẩm Dưới chín tầng trời nhưng nó có ý nghĩa khá sâu sắc. Nó không chỉ cho thấy cái nhìn sâu, rộng của tác giả về cõi trần gian, mà còn cho thấy tư tưởng tiến bộ, nhạy bén của ông trước thời cuộc - thời kỳ mở cửa, hội nhập của nước ta với thế giới. Đó là nơi chứng kiến bao cảnh sinh ly, tử biệt một thời, đó cũng chính là cửa ngỏ để đón những doanh nhân bên kia biên giới vào làm ăn ở nước ta. Mảnh đất biên giới phía Bắc đó là nơi gieo mầm hạnh phúc cho Kinh và Mai, cho mấy người con gái của bà Cháo, nhưng cũng chính nó đã chứng kiến cảnh tan tác biệt ly của những gia đình Hoa - Việt khi chiến tranh biên giới xảy ra, chứng kiến Đào Kinh vào tù ra tội, và mẹ con bà Cháo bơ vơ phải kiếm sống bằng “vốn tự thân”. Rồi cũng chính nó lại tiếp tục chứng kiến những nỗ lực làm lại cuộc đời của Kinh, từ hai bàn tay trắng vươn lên thành tỷ phú Đào Kinh. Có thể nói, trong tác phẩm Dưới chín tầng trời, bên cạnh không gian làng Đoài thân thương, thì không gian biên giới mà đặc biệt là biên giới phía Bắc cũng là một trong những không gian được Dương Hướng đặt nhiều tâm sức. Những ngôi nhà, xóm người Hoa, những bến tàu, bến cá, những nhà hàng, nhà chứa... tất cả làm nên một không gian giàu tiềm năng nhưng không hề bình yên mà luôn ẩn chứa, rình rập những mối hiểm nguy đòi hỏi con người muốn tồn tại phải có một bản lĩnh thực sự.
      Tuy nhiên, dù thể hiện không gian hiện thực nào chăng nữa, nhưng tiểu thuyết Dương Hướng không nhằm hướng đến một không gian vũ trụ, rộng lớn như trong sử thi, thần thoại... mà tái hiện những mảng sống hết sức riêng tư, cá nhân của con người. Qua đó, nhà văn muốn giúp người đọc thức nhận rõ hơn về số phận, cảnh đời của nhân vật trong những môi trường sống khác nhau.
      2.2.1.1.2 Không gian huyễn tưởng
      Bên cạnh không gian hiện thực, tiểu thuyết của Dương Hướng còn có không gian huyễn tưởng. Đó là không gian trong trong tâm tưởng của con người qua các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết về làng quê của mình.
      Đến với Bến không chồng ta như lạc vào không gian huyền thoại bao phủ làng Đông bởi những câu chuyện huyền thoại về “hồ Mắt Tiên”, “gò ông Đổng” - “mộ con trời”, “con ma mặt đỏ” ở gốc duối đầu cánh mả Rốt, chuyện ba ba thuồng luồng ngoài bến sông trước từ đường họ Nguyễn mà người dân ở đây gọi là bến Tình - “bến không chồng”, cũng như không khí linh thiêng, thần bí của nhà thờ họ Nguyễn với cảnh hương khói suốt ngày khiến con cháu trong họ, người dân trong làng khiếp sợ... Không gian huyền thoại ấy cứ bàng bạc trong tác phẩm, khiến cho không gian thực của một vùng nông thôn được cảm nhận trong sự xê dịch, biến ảo và lôi cuốn lạ lùng.
      Đến với Bóng đêm và mặt trời, Dương Hướng dẫn dắt người đọc vào cái không gian huyền thoại của làng Nguyệt Hạ. Huyền thoại về đất làng được bắt đầu từ câu chuyện tình yêu của nàng công chúa Nguyệt Cầm và chàng nông dân. Huyền thoại ấy gắn liền với cánh diều - tựa như một vị thần đã cứu thoát hai người và đưa họ đến vùng đất này, lập nên làng Nguyệt Hạ. Vì thế, hình ảnh diều sáo cứ trở đi trở lại với những thanh âm vang vọng, nối quá khứ với hiện tại, truyền thuyết với đời thực trở thành biểu tượng của một miền không gian tâm linh trong tâm khảm mỗi người dân Nguyệt Hạ. Thế nhưng, chính cái không gian tưởng như thơ mộng được dệt nên từ câu chuyện cảm động ấy cũng là nơi nồng nặc mùi tử khí, bệnh tật, đói khát, mất mùa từ mối thù của hai dòng họ: Đinh Tử Túc và Vũ Bách Thiên. Và cũng chính nơi đó chứng kiến bao cái chết oan khuất tạo nên những bi kịch cho những người đang sống trên mảnh đất làng. Tất cả đã làm nên không gian huyễn tưởng của tác phẩm. Xây dựng không gian này, tác giả không chỉ nhằm tạo nên vẻ đẹp mờ ảo cho tác phẩm mà còn muốn lên án, phản kháng những tập tục, những lề lối của làng xóm, họ tộc cổ hủ, lạc hậu đang tồn tại ở nông thôn.
      Có thể nói, yếu tố huyền ảo được nhà văn sử dụng một cách đắc địa để làm nên chiều sâu và sức hấp dẫn của tác phẩm, không những thế, đây còn là yếu tố góp phần tạo nên tính chất “thừa” của tiểu thuyết ở phương diện không gian.
      2.2.1.1.3 Không gian tâm trạng
      Một trong những kiểu không gian được Dương Hướng xây dựng trong tiểu thuyết của mình là không gian tâm trạng. Tác giả tái hiện bức tranh tâm trạng này ở những nhân vật được chú ý về phương diện miêu tả tâm lý. Trong không gian ấy, con người được mổ xẻ tận cùng những ẩn khuất bên trong, được lột tả tất cả những xúc cảm tế vi nhất, được khai thác đến tận sâu những nỗi cô đơn, trống trải, giằng xé nội tâm. Khung cảnh làng Đông trong Bến không chồng được gợi lại trong tâm trí Vạn sau khi trở về từ chiến trường Điện Biên thật gần gũi, tha thiết nhưng nhói đau: “Nơi đây cũng là bãi chiến trường thời thơ ấu của Nguyễn Vạn. Những vết thương lòng còn hằn in trong tâm trí Vạn từ ngày đi ở chăn trâu cho nhà Hậu” [13, tr.267]. Với Hạnh, đối diện với những trống vắng cô đơn vây quanh khi đứng trước mênh mông bến nước, không khỏi có chút chạnh lòng: “Một nỗi tiếc nuối thoáng qua, một thời xuân sắc và những phút giây ân ái với Nghĩa bỗng trỗi dậy” [13, tr.447]... Không gian vắng lặng với mâm cơm bừa bộn những vở chai bia lăn lóc trong căn nhà của Tòng vào buổi sáng, sau cái đêm xảy ra sự cố giữa y và Nga (Bóng đêm và mặt trời); hay không gian xa hoa mà lạnh lẽo trong căn nhà của Măng trong đêm Đào Kinh đến thăm con (Dưới chín tầng trời)... đều là những không gian để nhân vật được bộc lộ, phơi bày đến tận cùng của cảm xúc, tâm trạng.
      Xây dựng không gian tâm trạng, không chỉ giúp cho việc mở rộng điểm nhìn trần thuật của tác phẩm; giúp tác giả đi sâu vào thế giới cảm xúc bên trong của nhân vật giữa một môi trường đầy rẫy những thiên kiến, hận thù, với những lề lối lạc hậu, với cái đói, cái nghèo cứ ghì sát con người ta xuống trong cuộc sống thiếu tình yêu thương mà nó còn là một phương thức nghệ thuật hiệu quả góp phần thể hiện số phận cá nhân con người trong tiểu thuyết Dương Hướng nói riêng và tiểu thuyết sau 1986 nói chung.
      Như vậy, hoà cùng dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, tiểu thuyết Dương Hướng không chỉ gói gọn không gian trong một khung cảnh làng quê hay thành thị chật hẹp, tù túng, quẫn bách như những tác phẩm 1930 - 1945, hoặc chiến trường ác liệt, nông thôn hăng hái sản xuất như trong giai đoạn 1954 - 1975; mà dù với số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng chúng đã bao trùm trong đó nhiều dạng không gian và càng về sau lại càng có xu hướng mở rộng. Với việc tạo dựng không gian như vậy, Dương Hướng đã tái hiện một bức tranh chân thực, muôn màu về cuộc sống “dưới chín tầng trời” này, qua đó góp phần thể hiện con người sinh động, đa diện và “đời” hơn.
  2.2.1 2 Cách thức tổ chức hình tượng không gian
      Trong các tiểu thuyết của mình, Dương Hướng đã tạo ra sự kết hợp xen kẽ giữa các kiểu không gian: hiện thực, huyễn tưởng và tâm trạng. Nếu không gian hiện thực gắn với những địa điểm mà các biến cố, sự kiện trong câu chuyện được diễn ra, thì không gian huyễn tưởng và không gian tâm trạng lại gắn với thế giới tâm hồn của nhân vật. Con người không chỉ tồn tại trong không gian hiện thực mà mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ chứa trong nó cả không gian và thời gian. Do đó, việc kết hợp không gian bên ngoài - hiện thực, với không gian bên trong - huyễn tưởng, tâm trạng của con người giúp chúng ta có thể nhìn ngắm con người từ nhiều góc độ hơn, thấy được sự vận động, biến đổi về số phận của nhân vật. Sự kết hợp ấy cho thấy tính chủ quan trong việc tổ chức không gian nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Nó xuất phát từ đặc điểm của không gian nghệ thuật là không gian mang tính quan niệm - tuỳ thuộc vào ý đồ và phong cách của nhà văn. Trong sự đan cài giữa các kiểu không gian kể trên, việc kết hợp thêm không gian huyễn tưởng và tâm trạng bên cạnh không gian hiện thực không chỉ tạo ra sự mở rộng không gian về nhiều phía mà còn cho thấy tính chất “thừa” của tiểu thuyết về phương diện không gian, bởi lẽ, không gian huyễn tưởng và không gian tâm trạng nằm ngoài diễn biến chính của câu chuyện. Qua việc tạo nên những không gian “thừa” bên cạnh không gian thực, nhân vật sẽ được phát hiện một cách trọn vẹn trong sự va đập của các chiều không gian. Ngoài ra, tính chủ quan trong cách tổ chức hình tượng không gian của Dương Hướng còn thể hiện ở chỗ, trong khi xây dựng không gian hiện thực, nhà văn có phần ưu ái hơn đối với không gian làng quê. Những trang miêu tả về không gian làng Đông, làng Đoài hay làng Nguyệt Hạ trong các tiểu thuyết của ông cho thấy vốn hiểu biết sâu sắc cũng như tình cảm yêu mến mà ông dành cho nó. Phải chăng, điều này xuất phát từ những ấn tượng của ông đối với quê hương An Lệch - Thuỵ Liên - Thái Thuỵ - Thái Bình?
      Do sự chi phối của tính chất chủ quan trong việc tổ chức các kiểu không gian, Dương Hướng đã xây dựng nên hình tượng không gian mang tính chất đời tư, thế sự trong tiểu thuyết, nghĩa là không gian gắn với đời sống thường nhật và tâm tư tình cảm của các nhân vật. Tính chất thế sự thể hiện trong việc phản ánh những không gian thực của cuộc sống vào trong ba tác phẩm: không gian làng quê, không gian chiến trận, không gian thành thị, không gian biên giới, với nhiều địa điểm gắn chặt với đời sống sinh hoạt, tập tục truyền thống của người dân: nơi đấu tố, bãi tha ma, nhà thờ họ, bến nước, bãi cỏ, con đê, bến cảng, nhà hàng, biên giới, nhà Vạn, nhà thương gia Đức Cường, nhà gia tộc Hoàng Kỳ... Đó cũng chính là những nơi gắn liền với những biến cố trong cuộc đời nhân vật, gắn với cuộc đời chìm nổi của họ. Tính chất đời tư thể hiện ở việc tạo nên những không gian gắn với việc con người bên trong nhân vật tự mổ xẻ chính mình trong nỗi cô đơn, dằn vặt, đau đớn, day dứt, hối hận.... Ví như không gian trống trải, lạnh vắng mỗi đêm trong căn buồng của Hạnh, không gian mênh mông buồn của “bến không chồng”... chính là môi trường để cho con người bên trong của Hạnh cào cấu, khắc khoải...Không gian tràn ngập nỗi cô đơn trong căn phòng riêng của ông Đức Cường hay không gian hoang vắng, ảm đạm nơi căn hầm bị bỏ hoang của gia đình ông là bầu không khí để ông sống với con người bên trong ngổn ngang những dằn vặt, hối hận cho bước đi sai lầm của bản thân...
      Tóm lại, sự phối kết hợp các kiểu không gian thành không gian nghệ thuật của tác phẩm đã cho thấy tính chất chủ quan, đời tư, thế sự của không gian trong tiểu thuyết Dương Hướng. Với cách tổ chức như vậy, Dương Hướng vừa tôn trọng, vừa phát huy được thế mạnh của thể loại tiểu thuyết trong việc xây dựng thế giới nghệ thuật nhưng đồng thời cũng thể hiện phong cách riêng qua nghệ thuật xây dựng hình tượng không gian.
2.2.2 Hình tượng thời gian
Thời gian nghệ thuật là thời gian của thế giới hình tượng, vì thế, nó là hình tượng thời gian. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thời gian nghệ thuật là:
Hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó... Thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận... Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới… [9, tr.322].
Với tư cách một phạm trù thẩm mỹ, một hình tượng nghệ thuật trong văn học, do đó, thời gian nghệ thuật cũng được sắp xếp, bố trí theo dụng ý của tác giả nhằm tạo nên một kết cấu chặt chẽ. Nằm trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, hình tượng thời gian trong tiểu thuyết Dương Hướng, vừa có điểm khác biệt, vừa ít nhiều mang những đặc điểm giống với các tiểu thuyết cùng thời.

  2.2.2.1 Các kiểu thời gian
      Thời gian trong tiểu thuyết Dương Hướng luôn là thời gian ở thì hiện tại tiếp diễn. Câu chuyện luôn ở trạng thái đang diễn ra chứ chưa hoàn thành. Kết thúc của cái này lại mở ra một cái mới. Ví như, trong Bến không chồng, Vạn chết, nhưng cuộc đời mẹ con Hạnh lại vẫn cứ tiếp diễn và ai biết Hạnh có quay về với Nghĩa không: “Hạnh dắt con gái đi bên Nghĩa. Giữa tiếng kèn réo rắt bên tai, chị vẫn nghe rõ lời chú Vạn cứ vẳng lên: “Đừng thương hại tao... Hãy trở về với thằng Nghĩa...”” [13, tr.570]. Hay trong Dưới chín tầng trời, đám rước tiễn đưa Trần Tăng về với cõi vĩnh hằng trên con đường do Đỗ Hiền mới mở chạy giữa hai cánh đồng làng Đoài ra cánh mả Rốt như một sự đoạn tuyệt với cái xấu xa, lỗi lầm của lịch sử nhưng đồng thời cũng mở ra một cuộc sống mới cho người dân làng Đoài... Có cảm giác dòng đời trôi chảy qua từng trang, từng số phận của nhân vật trong các tác phẩm. Để có thể tạo nên sự trôi chảy về thời gian đó, Dương Hướng đã xây dựng nên hai kiểu thời gian trong tiểu thuyết: Thời gian đan cài giữa hiện thực và huyền thoại; thời gian đan xen giữa hiện tại và quá khứ.
      2.2.2.1.1 Thời gian đan cài giữa hiện thực và huyền thoại
      Dương Hướng xây dựng thời gian trong tiểu thuyết của mình theo hình thức xen cài giữa thời gian thực với thời gian trong thần thoại. Nghĩa là, cùng với thời gian hiện thực, tác giả còn xen vào thể hiện thời gian huyền thoại thông qua những câu chuyện kể về những sự tích của làng Đông: “bến không chồng”, hồ Mắt Tiên, gò ông Đổng... (Bến không chồng); hay huyền thoại về làng Nguyệt Hạ, về những sự vật gắn bó với cuộc sống của người dân quê: ao đình, con cừ (Bóng đêm và mặt trời). Ta có thể nhận ra thời gian huyền thoại trong tác phẩm nhờ các từ ngữ chỉ thời gian mang tính phiếm chỉ: “xưa” [13, tr.13], “ngày xửa ngày xưa” [13, tr.271 - 272], hoặc các từ ngữ dẫn nhập câu chuyện: “truyện rằng” [13, tr.16], “chuyện rằng” [13, tr.274]...
      Kiểu thời gian đan cài giữa hiện thực và huyền thoại không phải là sáng tạo riêng của Dương Hướng vì ta cũng có thể bắt gặp nó trong một số tác phẩm khác mà Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường là một ví dụ tiêu biểu. Ở đó, thời gian hiện thực được xen lẫn với thời gian của những câu chuyện ma quái xoay quanh các nhân vật: lão Quềnh, cô Thống Biệu và chị Bé. Tuy nhiên, bằng việc sử dụng nó trong hai tiểu thuyết nói trên, Dương Hướng đã làm tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện, khiến cho nó nhuốm màu sắc của thần thoại. Điều đó góp phần tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Qua việc xây dựng thời gian đan cài giữa hiện thực và huyền thoại, tác giả đã tạo nên được thời gian tâm linh, để rồi cùng với không gian tâm linh xây dựng một thế giới nghệ thuật lung linh, bí ẩn và kỳ thú.
      2.2.2.1.2 Thời gian đan xen giữa hiện tại và quá khứ
      Ngoài kiểu tổ chức thời gian nghệ thuật kể trên, thời gian trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Với Bến không chồngBóng đêm và mặt trời, sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ trong tác phẩm chỉ thông qua sự hồi nhớ của nhân vật. Xây dựng thời gian hồi nhớ, hồi tưởng giúp cho tác giả phác hoạ lại đường đời và những chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của nhân vật, hé mở phần bí ẩn trong cuộc đời nhân vật. Và vì thế, nhân vật trở nên sống động, chân thực, gần gũi với người đọc. Nguyễn Vạn (Bến không chồng) khi trở về làng từ chiến trường Điện Biên, đi qua cánh mả Rốt, bất chợt kí ức về những ngày thơ ấu hiện về trong tâm trí anh: “Nơi đây cũng là bãi chiến trường thời thơ ấu của Nguyễn Vạn. Những vết thương lòng còn hằn in trong tâm trí Vạn từ ngày đi ở chăn trâu cho nhà Hậu. Quanh năm Vạn mặc chiếc quần cộc phơi tấm lưng trần đen nhánh trên lưng trâu” [13, tr.267]. Còn Nghĩa, khi còn là một đứa trẻ, trong những ngày từ đường họ Nguyễn trở thành nơi cùm nhốt địa chủ và bọn phản động, cả làng nháo nhác lên, thế giới dường như đang “nổi loạn” trong mắt Nghĩa, cậu nhớ lại những ngày bộ đội về đánh bốt Linh, cả làng Đông đã thức suốt đêm nấu cơm mang cho bộ đội:
Đêm đánh bốt Linh thằng Nghĩa cũng thức suốt đêm. Chập tối bộ đội súng ống rậm rịch kéo về tập kết chật ba gian từ đường. Nghĩa thấy mẹ nó, mẹ bé Hạnh, ông Xung và cả thím Xeng tất bật nấu cơm cho bộ đội... Tới nửa đêm, tiếng súng rộ lên. Nghĩa leo hẳn lên nóc từ đường nhìn về phía bốt Linh lửa cháy sáng cả góc trời. Chừng tiếng sau du kích khênh thương binh về để kín ba gian từ đường. Những cánh cửa lim hạ hết xuống làm bàn mổ, làm giường cho thương binh. Nghĩa còn cầm đèn soi cho y tá băng bó vết thương cho bộ đội. Ba gian từ đường màn trắng giăng kín. Lần đầu tiên Nghĩa nhìn thấy máu người. Sao người ta lại lắm máu thế?... [13, tr.304 - 305].
      Trong Bóng đêm và mặt trời, Ngô Quất cũng có những lúc hồi tưởng lại quá khứ của mình. Ấy là khi Quất đang vui về kế hoạch phá đình Nguyệt Hạ của y đã được xã nhất trí. Quất cảm thấy “đời mình được như bây giờ cũng là may mắn lắm” [13, tr.36]. Lúc nầy, những kỷ niệm về gia đình chợt ùa về trong y. Quất nhớ lại những ngày gia đình Quất còn khốn khó, bố mẹ Quất phải đi gắp cứt về bán lấy tiền rồi nhờ đó mà trở nên giàu có, đến khi Quất chỉ tay vào mặt bố mà vạch cái tội làm giàu của ông ta kiên quyết ly khai thành phần gia đình địa chủ của mình: “Thật không may cho số kiếp Quất lại sinh ra từ cái gia đình thối tha bẩn thỉu ấy... Đúng là bây giờ con bị mù vì ngày xưa con đau mắt mà vẫn phải đi gắp cứt để bán lấy tiền đong gạo nuôi ông đấy ạ” [13, tr.36 - 39]. Còn với Dưới chín tầng trời, kiểu tổ chức thời gian này không chỉ dừng lại ở việc tạo xây thời gian hồi tưởng của nhân vật trong một chương nào đó, mà nó là sự xáo trộn về thời gian giữa các chương với nhau. Quá khứ và hiện tại cứ đan xen giữa các chương trong quá trình kể câu chuyện. Thời gian trong tác phẩm có sự đảo ngược nhưng không trôi theo dòng ký ức của nhân vật như trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thời gian ở đây tuân theo trật tự kể. Việc tổ chức thời gian này cho thấy một sự đổi mới trong cách viết của Dương Hướng, một sự thay đổi theo xu thế văn chương hậu hiện đại - nghệ thuật ghép mảnh. Mỗi chương là một mảnh ghép, và từ chương này sang chương khác không phải là một sự nối tiếp về thời gian như trong tiểu thuyết truyền thống, nó là một sự xáo trộn, đan chéo về thời gian. Từ hiện tại, người đọc được đưa trở về quá khứ, rồi hiện tại, rồi quá khứ, hiện tại... Cứ như vậy, hiện tại và quá khứ đan xen, chồng chéo, xoắn quyện vào nhau trong tác phẩm. Tuy nhiên, quá khứ cũng không chỉ là một thời điểm nào đó cụ thể mà có rất nhiều thời điểm khác nhau, nhiều câu chuyện khác nhau trong quá khứ. Và do đó, nói thời gian quá khứ nhưng nó không phải là một quá khứ nhất định nào, ở chương này kể về quá khứ này, chương khác lại là một quá khứ khác. Thời gian quá khứ ở đây cũng không được kể liền mạch, theo trình tự trước sau, mà có khi quá khứ xảy ra sau lại được kể ở chương trước. Thời gian quá khứ cũng thay đổi theo không gian và câu chuyện được kể. Có khi đó là chuyện đã xảy ra ở làng Đoài, lúc ở chiến trường, khi biên giới, lúc lại ở Đà Nẵng... Thời gian hiện tại cũng vậy, nó không cố định, ngưng đọng trong một không gian hay một thời điểm. Hiện tại trong tác phẩm cũng có sự vận động. Hai chương mở đầu của tác phẩm có thể xem là thời gian hiện tại nhưng không phải là đoạn cuối của câu chuyện, nó chỉ là thời điểm gần cuối mà thôi. Thời gian hiện tại lại được xuất hiện ở các chương 5, 8, và ba chương cuối cùng của tác phẩm (31, 32, 33). Trong đó, ba chương cuối cùng là sự nối tiếp với hiện tại được mở ra ở đầu tác phẩm và kết thúc cho toàn bộ câu chuyện trong đó. Những chương còn lại là sự lắp ghép của nhiều câu chuyện trong quá khứ. Việc tổ chức thời gian không theo trật tự tuyến tính, từ thời gian của câu chuyện này tác giả có thể nhảy sang kể về một câu chuyện khác, trong một thời gian khác rồi trở lại kể tiếp câu chuyện còn dang dở, biến tác phẩm trở thành một trò chơi xếp hình, đã lôi cuốn người đọc vào việc đọc từ đầu đến cuối tác phẩm để hiểu được những gì đã và đang diễn ra, sắp xếp lại các mảnh ghép để có thể xâu chuỗi câu chuyện theo một trật tự thời gian, từ đó mới hiểu hết toàn bộ câu chuyện. Như vậy, ở tác phẩm Dưới chín tầng trời, việc tổ chức thời gian đã có sự đổi mới hơn so với các tiểu thuyết trước đó của nhà văn, không chỉ là sự mở rộng biên độ về thời gian (gói trọn cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc hơn nửa thế kỷ) mà ở đó thời gian còn có sự lắp ghép, đan xen, chồng chéo giữa hiện tại và quá khứ. Và từ đây, chúng ta có thể đồng ý rằng, tuy tiểu thuyết này vẫn mang rất nhiều yếu tố của cách kể truyền thống nhưng về phương diện thời gian thì nó đã cho thấy ý thức cách tân của Dương Hướng.
      Ta cũng có thể bắt gặp kiểu thời gian có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ này trong nhiều truyện ngắn của Dương Hướng: Đêm trăng, Dì Sa, Hương hoa gạo, Khoảng trời riêng, Bến khách... Trong những truyện Đêm trăng, Dì Sa, Khoảng trời riêng, Bến khách, mở đầu tác phẩm bao giờ cũng là thời hiện tại. Từ hiện tại câu chuyện được kể lùi về quá khứ theo sự hồi nhớ, hồi tưởng của nhân vật, rồi sau đó lại quay trở về hiện tại để kể tiếp. Riêng với Hương hoa gạo thì thời điểm mở đầu tác phẩm không phải ở hiện tại, nó là quá khứ gần, khi Quế - con gái má Sâm đã đến tuổi lấy chồng. Từ đó, câu chuyện trở về với quá khứ xa hơn khi Quế mới mười tuổi và được má gửi ra Bắc, rồi quay trở về thời điểm mở đầu. Sau đó, câu chuyện được kể tiếp đến một quá khứ gần hơn, khi Quế đã đến độ chín của thời con gái. Cuối cùng là thời điểm hiện tại, Quế đã qua tuổi hai sáu, mỗi ngày một già đi, “mặt sạm lại mất vẻ hồn nhiên ríu rít của ngày xưa”, “Quế cứ ngẩn ngơ dở khôn dở dại”. Truyện ngắn này là dòng hồi ức thiêng liêng mà cảm động của má Sâm với cánh lính. Tuy nhiên, thời gian trong truyện ngắn Dương Hướng có quy mô nhỏ hơn, mặt khác nó cũng chưa tạo ra được sự chồng chéo, hay những đứt gãy về thời gian như trong tiểu thuyết, đặc biệt là Dưới chín tầng trời.
      Việc tạo ra kiểu thời gian có sự hoà lẫn giữa hiện tại và quá khứ cho thấy một cách kể linh hoạt, một cách nhìn sự vật trong sự vận động của nhà văn. Từ đó, nó góp phần làm nổi bật tính cách, tâm lý và số phận nhân vật. Không những thế, kiểu thời gian này làm cho hiện tại tiếp diễn dài ra, tạo nên tính chất phi sử thi, tăng tính bất ngờ, hấp dẫn cho tiểu thuyết.
  2.2.2.2 Cách thức tổ chức hình tượng thời gian
      Trong tiểu thuyết Dương Hướng, các câu chuyện được kể không theo trật tự tuyến tính mà có sự đan xen giữa thực và ảo, hiện tại và quá khứ. Ngay như Bến không chồng, dù xét trên bề mặt thì thời gian trong tác phẩm này có tính chất tuyến tính, nhưng do có sự đan xen vào của thời gian huyền ảo nên nhân vật có khi bị kéo chìm vào câu chuyện cổ tích, khiến cho cốt truyện chính không còn liền mạch như tính chất tuyến tính vốn có. Cách thức tổ chức thời gian phi tuyến tính cũng phần được thể hiện trong Bóng đêm và mặt trời. Trong tác phẩm này, không chỉ có sự xen vào của thời gian huyền thoại qua sự tích về làng Nguyệt Hạ, mà còn có sự đảo ngược thời gian kể chuyện. Câu chuyện về buổi sinh nhật của Thu Nguyệt, con gái Thu Nga lẽ ra phải kể trước việc Nga vào nhà giam thăm Đô, nhưng trong tiểu thuyết này, tác giả lại để nó xuất hiện sau. Cách tổ chức hình tượng thời gian phi tuyến tính này thể hiện rõ nhất là ở tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Ở đó, thời gian của hiện tại và quá khứ, quá khứ gần và quá khứ xa cứ xen cài vào nhau, thời gian trước - sau có sự đảo ngược giữa các chương... Việc tổ chức thời gian phi tuyến tính như vậy khiến cho thời gian trong tác phẩm không còn cảm giác đơn điệu, cứng nhắc, đồng thời đưa tiểu thuyết của Dương Hướng xích lại ngày càng gần hơn với tiểu thuyết hiện đại.
      Bên cạnh việc tổ chức thời gian theo hình thức phi tuyến tính, Dương Hướng còn xây dựng nó theo hình thức chủ quan, nghĩa là nó gắn với cái “tôi” của nhà văn. Sở dĩ như vậy là vì thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian nên nó luôn luôn mang tính cảm xúc và tính quan niệm, do đó, nó vốn mang đầy tính chất chủ quan. Tính chất chủ quan ấy được thể hiện ở việc tác giả đan xen giữa các kiểu thời gian trong cùng một tác phẩm. Sự kết hợp trong cùng một tác phẩm các kiểu thời gian kể trên giúp cho nhà văn thể hiện được quan niệm của mình về cuộc đời và con người. Con người không chỉ sống với thời gian đang trôi chảy ngoài kia mà nó còn khắc khoải trong tâm tưởng bởi rất nhiều những vướng bận khác nhau, những ký ức không thể nguôi ngoai hay những ước mơ cổ tích bởi mỏi mệt trên đường đời chông gai... Bởi vậy, nếu chỉ nhìn con người trong thời gian thực thì không thể thấy được con người bên trong thực sự của họ như thế nào. Đó sẽ là một cách nhìn phiến diện về con người, nó không thể phản ánh chân thực cuộc sống như nó vốn có. Vì thế, Dương Hướng đã tạo nên sự kết hợp của các kiểu thời gian ấy trong hình tượng thời gian của các tác phẩm, qua đó nhà văn mới có thể đi sâu vào thế giới bên trong của con người, khám phá ký ức và những khát khao ẩn dấu, góp phần bộc lộ đời tư của nhân vật.
      Có thể nói, nếu Thời xa vắng (Lê Lựu) - sử dụng thời gian tâm lý, Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường) - thời gian hiện thực pha màu huyền thoại, Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) - thời gian trôi theo dòng tâm tưởng, ý thức của nhân vật..., thì tiểu thuyết Dương Hướng với những kiểu thời gian: đan cài giữa hiện thực và huyền thoại, đan xen giữa hiện tại và quá khứ, cùng cách tổ chức hình tượng thời gian vừa mang tính chủ quan, vừa phi tuyến tính, đã góp phần tạo nên diện mạo cho văn học Việt Nam sau 1986. Đặc biệt, qua việc xây dựng thời gian trong tác phẩm Dưới chín tầng trời, Dương Hướng đã cho thấy nỗ lực của ông trong việc tự làm mới mình. Đó thực sự là một tinh thần rất đáng hoan nghênh đối với bất cứ người cầm bút nào.
      Tóm lại, cùng với nhân vật, hai phương diện khác là kết cấu và hình tượng không - thời gian cũng góp phần biểu hiện nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng. Ở phương diện kết cấu, nghệ thuật tiểu thuyết được bộc lộ qua hai hình thức cơ bản là kết cấu ghép mảnh và kết cấu trùng điệp. Ở phương diện không - thời gian, nó được thể hiện qua việc đan cài ba kiểu không gian: hiện thực, huyễn tưởng, tâm trạng và giăng mắc của hai yếu tố thời gian: đan cài giữa hiện thực và huyền thoại, đan xen giữa hiện tại và quá khứ; cùng các cách thức tổ chức hình tượng không gian - chủ quan, đời tư, thế sự và thời gian - chủ quan, phi tuyến tính nhằm tạo nên môi trường cho nhân vật sống, trải nghiệm với trọn vẹn những hạnh phúc, khổ đau của thân phận con người. Từ đây, ta hiểu hơn về đặc điểm của tiểu thuyết, thấy được phong cách nhà văn và cả sự nỗ lực “vượt lên chính mình” trong sáng tạo nghệ thuật của ông.

Chương 3
 NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
DƯƠNG HƯỚNG
3.1 Hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Dương Hướng
      Theo Từ điển bách khoa Pháp trên trang Web Wikipédia: “Trong một truyện kể hư cấu, người kể chuyện chính là người kể lại câu chuyện. Anh ta có thể hoá thân vào một nhân vật (truyện kể ở ngôi thứ nhất), hoặc là một người ngoài kể lại câu chuyện (truyện kể ở ngôi thứ ba)”. Song cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này: Pospelov: “người môi giới giữa các hiện tượng được mô tả và người nghe (người đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra”; W. Kayser: “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học”; Todorov: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng mang tính xét đoán và đánh giá” [23, tr.196]. Tuy nhiên, dù có nhiều ý kiến thế nào đi nữa thì không ai có thể phủ nhận vai trò trung tâm của người kể chuyện đối với lý thuyết tự sự học, và các chức năng: thuật truyện; bao quát cốt truyện, hệ sự kiện; chứng thực câu chuyện; thông tin; bày tỏ quan điểm, ý kiến của anh ta. Trong các chức năng này, thuật truyện là chức năng quan trọng nhất.
      Mỗi một tác phẩm tự sự sẽ có một hay nhiều dạng thức người kể chuyện khác nhau khi xây dựng hình tượng người kể chuyện, tuỳ theo ý đồ nghệ thuật của tác giả. Dựa vào mối quan hệ giữa người kể chuyện và câu chuyện, người ta phân ra các dạng người kể chuyện như: Người kể chuyện dị sự (toàn năng/ không toàn năng), người kể chuyện đồng sự, và người kể chuyện tự thống chế (tự truyện). Tương ứng với mỗi dạng thức đó, các chức năng của người kể chuyện sẽ có những biến đổi nhất định. Vậy, hình tượng người kể chuyện trong tiểu thuyết Dương Hướng có đặc điểm gì đáng chú ý?
3.1.1 Người kể chuyện dị sự toàn năng
      Trên đại thể, trần thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng là trần thuật bậc một, nghĩa là câu chuyện do một người kể lại, đó là người kể chuyện dị sự toàn năng. Người kể chuyện ấy kể bằng ngôi thứ ba, đóng vai trò “thượng đế biết tuốt”. Anh ta không chỉ kể về cuộc đời nhân vật, về sự kiện, biến cố, mà đi được vào thế giới nội tâm của nhân vật; không chỉ thuật lại câu chuyện và có thể xen vào miêu tả, hay nhận xét, triết lí nhưng vẫn không phá vỡ tính chỉnh thể của tác phẩm.
      Đối với một tác phẩm tự sự thì người kể chuyện là người do nhà văn sáng tác ra để thực hiện hành vi trần thuật, do đó vai trò đầu tiên của người kể chuyện là thuật chuyện, nghĩa là anh ta phải kể về cuộc đời nhân vật, về những sự kiện, biến cố xảy ra trong tác phẩm. Tuy nhiên, với người kể chuyện “biết tuốt”, bên cạnh việc kể chuyện, anh ta còn có thể đi được vào thế giới nội tâm của nhân vật, từ đó giúp chúng ta biết được nhân vật đang nghĩ gì, cảm thấy thế nào.Ví như, trong Bóng đêm và mặt trời nhân vật Nga không chỉ hiện lên qua những sự kiện, tình tiết được kể mà còn khiến chúng ta xúc động bởi những suy nghĩ của nhân vật trước mỗi biến cố của cuộc đời. Đó có thể là cảm xúc khi Nga quyết định trao chiếc vòng bạc cho Đô như một minh chứng cho tình yêu của Nga dành cho anh: “Chiếc vòng bạc lúc nãy Nga bỏ vào trong túi áo bây giờ như có phép lạ làm trái tim Nga thổn thức... Chiếc vòng này, Nga chỉ dành cho anh. Ngoài anh ra Nga không hề nghĩ đến ai khác. Ôi anh đến là ngốc... Sao anh lại ngốc đến vậy” [13, tr.69]; là nỗi nuối tiếc xót xa của Nga trong đêm tân hôn với Bức: “Nỗi hoảng sợ tiếc nuối chợt bùng lên. Nga tiếc tấm thân trong trắng và tình yêu đẹp đẽ của mình với Đô” [13, tr.92]; hay nỗi chua xót bẽ bàng của Nga sau đêm ngủ ở nhà Đặng Xuân Tòng và bị y chiếm đoạt: “Một thực trạng ê chề làm tan nát cõi lòng Nga. Nga sợ hãi run rẩy vùng dậy. Nga sợ hãi chính nơi Nga đang nằm... Nga cố bám víu vào sự may rủi và thấy cuộc đời này thật lắm nỗi truân chuyên” [13, tr.155 - 156]... Không chỉ với nhân vật Nga, mà với các nhân vật khác trong tiểu thuyết này như Ngô Quất, Hoàng Đô..., nội tâm của họ cũng nhiều lần được người kể chuyện “biết tuốt” kể lại. Ở tiểu thuyết Bến không chồng, thông qua người kể chuyện “biết tuốt”, ta có thể thấy được tâm trạng của Hạnh sau đêm tân hôn với Nghĩa ngoài bờ sông: “Nằm lại một mình Hạnh thấy lâng lâng. Giây phút đê mê khoái cảm trong vòng tay Nghĩa vẫn còn sống động trên da thịt nóng bừng của Hạnh. Lần đầu tiên trong đời Hạnh đã phơi ra trước mắt Nghĩa cái thân thể con gái của mình. Bây giờ nghĩ lại Hạnh thấy nó buồn cười” [13, tr.343]; hay nỗi bàng hoàng xen lẫn xót xa khi Hạnh tình cờ đọc nhật ký của Thuỷ và biết được quan hệ giữa cô với Nghĩa: “Mọi sự ào đến với Hạnh như một cơn lốc cuốn phăng mọi thứ. Hạnh không còn gì hết, mất hết tất cả, chỉ còn lại thân xác vật vờ trôi giữa dòng xoáy. Người ấy cứ lởn vởn trước mắt Hạnh... So với người ấy Hạnh chỉ là đứa nhà quê đen đủi hẩm hiu” [13, tr.530]... Những suy nghĩ của chú Vạn vào cái đêm Vạn ngủ lại nhà chị Nhân cũng được thuật lại sinh động thông qua người kể chuyện này:
...Vạn chưa bao giờ thấy chị Nhân lại lả lơi như lúc này... Chả lẽ chị Nhân cũng lại giống mụ Hơn, vợ thằng Công? Chả lẽ đàn bà ai cũng thế cả, rửng mỡ lên là quên hết mọi chuyện không còn biết giữ gìn gì nữa... Cái nhà chị này hôm nay rửng mỡ. Chả lẽ Vạn lại nói thẳng ý nghĩ của mình ra trước mặt chị Nhân: “Tôi yêu chị đấy, từ lâu rồi, chị có dám không?” Không! Không bao giờ lại xảy ra điều khủng khiếp ấy. Trên đời này còn bao nhiêu chuyện ràng buộc: danh dự, uy tín... [13, tr.411]...
      Với Dưới chín tầng trời, thông qua kiểu người kể chuyện này ta cũng biết được tâm trạng, cảm xúc hay nghĩ nghĩ của các nhân vật. Đó có thể là suy nghĩ của Trần Tăng khi khoái chí ngồi nhìn Yến Quyên viết kiểm điểm trong huyện đường: “...Suy cho cùng cũng tại trời đất này sinh ra thằng đàn ông nhiều đam mê nhiều danh vọng như ta, lại còn sinh ra loại đàn bà đầy ma lực như Yến Quyên, tại hương sắc của nàng quyến rũ ta đến mê mẩn tâm thần. Ta phải dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt trái tim kiêu hãnh của nàng...” [14, tr.122]; là suy nghĩ của Thương Huyền khi nàng sắp sinh Bill: “...Nó giống nàng hay giống Bell, mắt xanh mũi lõ?Dù nó giống Bell nó vẫn là con của nàng, của riêng nàng... Nó ra đời, lớn lên nó sẽ hỏi ba nó là ai? Ai đã giết ba nó? Nó còn có cả chị nó là Ngọc Lan, không biết đang ở đâu, còn sống hay đã chết rồi. Nó sẽ hỏi tại sao má lại không nuôi chị Ngọc Lan?” [14, tr.174]; hay những dằn vặt, hối tiếc của thương gia Đức Cường vào ngày cưới của Thu Cúc, cũng là ngày định mệnh của đời ông: “Chưa bao giờ ông thấy mình cô đơn như lúc này, chưa bao giờ ông thấy mình lại chán nản như lúc này. Ông là kẻ thất bại thảm hại nhất trên đời... Ông đã trở thành kẻ có tội với vợ con” [14, tr.279]...
      Như vậy, người kể chuyện dị sự toàn năng trong tiểu thuyết Dương Hướng bên cạnh việc kể về cuộc đời, số phận của các nhân vật thông qua các chi tiết, sự kiện, còn cho ta biết những suy nghĩ của họ trước mỗi sự kiện, từ đó giúp cho người đọc có cái nhìn sâu hơn về nhân vật.
      Không chỉ có chức năng thuật truyện và đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật mà người kể chuyện dị sự toàn năng còn có khả năng xen vào miêu tả, đưa ra những nhận xét, triết lý, suy ngẫm. Trong Bóng đêm và mặt trời, thông qua việc sử dụng kiểu người kể chuyện này, tác giả đã lồng vào miêu tả cho chúng ta thấy hình ảnh của núi Đợi từ bao đời nay vẫn đứng cô đơn giữa đất trời:
Ngọn núi Đợi cao ngất vượt hẳn lên trong mênh mông trời đất... Ai mà biết được từ bao đời nay núi Đợi đứng cô đơn trông ngóng chờ đợi điều gì? Người ta dễ nhận thấy sự cô đơn của núi bởi chính độ cao của nó vượt hẳn một ngọn núi khác trên dãy Bảo Bàn. Núi Đợi vươn cao chót vót trên chín tầng mây như nỗi khát vọng khôn cùng của tạo hoá muốn vươn tới một cái gì đó vô cùng cao quý mà loài người chưa ai hiểu nổi... [13, tr.177 - 178].
      Cũng trong tiểu thuyết này, trong khi kể lại câu chuyện, người kể chuyện “biết tuốt” cũng xen vào những lời nhận xét, đánh giá, những triết lý, suy ngẫm của mình: “Có lẽ chưa ở đâu con người lại đón nhận cái chết bình thản như ở trận địa” [13, tr.174]... Với Bến không chồng, người kể chuyện ấy lại đem đến cho người đọc những đoạn miêu tả về từ đường họ Nguyễn:
Ba gian từ đường có hai hàng cột cái và hai hàng cột con, cả thảy là mười sáu cột. Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen bóng lên. Các chân cột đặt đá tảng xanh nổi vân trắng, nền từ đường lát đá đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật với vôi, cát, rắn như đá. Trên bệ thờ là những con rồng đắp bằng vữa sơn son thiếp vàng rực rỡ, cỗ ngai đặt ở giữa bệ thờ, có bát hương to lúc nào cũng toả khói thơm ngát, gian giữa từ đường treo bốn câu đối trên bốn cột cái [13, tr.283 - 284]...
      Và đặc điểm này cũng có thể tìm thấy trong Dưới chín tầng trời qua những câu triết lý: “Thế đấy! Loài ma quỷ toàn núp bóng mỹ nhân khiến con người hay lầm lẫn” [14, tr.48], hoặc là: “Trên đời này không có thần thánh ma quỷ, chỉ có người sống người chết. Chết là hết. Chết thối rữa ra thì làm được gì. Hồn cốt thì có làm được gì. Đó chỉ là những trò bịp bợm mê tín dị đoan. Chỉ có người sống là đáng yêu và cũng đáng sợ” [14, tr.98]... Đặc điểm này cũng được nhiều nhà văn khai thác, sử dụng để chuyển tải ý đồ, tư tưởng nghệ thuật, cũng như những suy ngẫm của họ về cuộc sống. Do vậy, ở một số tiểu thuyết cùng thời với Bến không chồng của Dương Hướng như Thời xa vắng hay Mảnh đất lắm người nhiều ma ta cũng có thể nhận ra hiện tượng đó. Sử dụng người kể chuyện “biết tuốt”, các nhà văn Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường đã để cho người kể chuyện ấy của mình trong khi thuật truyện có thể xen và những câu triết lý sâu sắc có mà hóm hỉnh cũng có. Chẳng hạn như: “Với tình yêu, kẻ biết dối trá thuần thục bao giờ cũng lôi cuốn người con gái hơn rất nhiều những người chỉ biết biểu hiện lòng thành thật” [17, tr.323], hay: “Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng như anh nhọ đít” [25, tr.61], hoặc là: “Mới hay bụng dạ người đời, thấy thịnh thì thờ, thấy suy thì phản” [25, tr.135]...
      Bên cạnh đó, sử dụng kiểu người kể chuyện dị sự toàn năng còn đem lại cho nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng khả năng kể xen vào những câu chuyện khác bên ngoài cốt truyện chính: câu chuyện hồ Mắt Tiên, gò Ông Đổng, con ma mặt đỏ... (Bến không chồng); câu chuyện về Đinh Tử Túc và Vũ Bách Thiên, về huyền thoại làng Nguyệt Hạ với tục chơi diều và trao vòng, hay câu chuyện cụ già thăm cháu ở trại giam... (Bóng đêm và mặt trời).
      Ngoài ra, cùng với việc kể lại câu chuyện, người kể chuyện trong dị sự trong tiểu thuyết Dương Hướng còn trực tiếp bày tỏ thái độ của mình bằng bình luận, phân tích, đánh giá. Ví như trong Bóng đêm và mặt trời, ta có thể thấy được thái độ của người kể chuyện thông qua những từ ngữ mang tính đánh giá: “Mụ trơ tráo về ở với ông Vòng chăn vịt ở bờ sông cái”, “Thế mới ngông chứ”, “Ở đồng đất này, mụ Bông nghĩ ra được cách mở quán giá bán nước thì tài thật” [13, tr.130]...
      Sử dụng người kể chuyện dị sự chính là cách Dương Hướng làm tăng tính linh hoạt trong cách dẫn chuyện, giúp tác giả có thể đẩy câu chuyện theo nhiều hướng khác nhau mà không bị chi phối hay câu thúc vào một khuôn mẫu nào, đang kể chuyện này vẫn xen vào miêu tả, triết lý hay kể chuyện khác... một cách dễ dàng. Từ đó, nhà văn có thể phơi bày không chỉ hiện thực cuộc sống mà cả những suy ngẫm, trăn trở của chính ông về cuộc đời này. Hơn nữa, chính tính chất linh hoạt ấy của người kể chuyện dị sự lại tạo nên “cái thừa”, làm bộc lộ tính chất phi sử thi trong tiểu thuyết Dương Hướng.
3.1.2 Nhân vật trong vai trò người kể chuyện
      Tuy nhiên, song song với việc sử dụng người kể chuyện dị sự toàn năng, trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có hiện tượng nhân vật đóng vai trò của người kể chuyện. Trong hoàn cảnh nhất định, một số nhân vật sẽ đóng vai trò của người kể chuyện, kể lại những câu chuyện về mình hay người khác, kể với người khác hay kể cho chính mình. Lúc này, có sự nhường vai trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện dị sự toàn năng sang ngôi thứ nhất của nhân vật.
      Nhân vật có khi thông qua những suy nghĩ, những đoạn độc thoại nội tâm của mình để kể chuyện - những câu chuyện về mình hoặc những người xung quanh. Hiện tượng này xảy ra với tần số rất cao trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Đó có thể là đoạn cho thấy những suy nghĩ của Trần Tăng khi ngồi nhìn Yến Quyên viết kiểm điểm ở huyện đường: “Ta phải dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt trái tim kiêu hãnh của nàng...” [14, tr.122]; là những dòng tâm tư của Trần Tăng trong ngày nhà tướng Trung mở tiệc vào dịp xã Chiến Thắng đón nhận danh hiệu anh hùng: “Ta đã sống một cuộc đời ngỡ oai hùng hoá ra cuối đời chẳng còn gì. Cả tới lúc chết cũng không biết nằm đâu cho yên ả” [14, tr.496]; hay những suy nghĩ của Đào Kinh sau khi ra tù, làm ăn khấm khá và đến chơi nhà Măng:
Ôi nàng Cam Quýt Mít Dừa của ta! Số nàng cũng may mắn, nàng đã cho ta cắm sừng nên mới có được con Măng với Trần Tăng. Bây giờ nàng muốn gì chả được. Ta lạ gì nàng, nàng chịu ở lại làng Đoài cũng chỉ bởi tính ương ngạnh của thằng Vương. Nó cấm mẹ nó theo ta, theo con Măng. Cứ ở làng Đoài mãi không biết sẽ còn khốn khổ đến bao giờ? Ngẫm ra mới thấy, tất cả những người rời làng Đoài ra đi ai cũng khấm khá. Như ba mẹ con bà Cháo nghèo kiết xác, giờ cũng đã có khách sạn lừng lững giữa thị xã vùng biển. Giàu có như Hoàng Kỳ Bắc xưa và vợ chồng Hoàng Kỳ Trung, Yến Quyên tài sắc tiếng tăm lừng lẫy bây giờ cũng vẫn chỉ có năm gian nhà cũ kĩ từ đời nảo đời nào. Còn cô Tuyết, đã làm dâu gia tộc Hoàng Kỳ mà vẫn bám theo Trần Tăng mãi thì cũng thành gái già mất thôi. Chung quy lại vẫn không bằng con Măng. Đời thật lạ lùng. Đắng cay như gia đình cậu Hiền em trai Yến Quyên vào Nam theo giặc, chạy sang Mỹ, nghe nói giờ lại giàu có, sắp về thăm quê xây dựng lại chùa Đông và làm đường ra cánh mả Rốt cho người sống tiễn đưa người chết lên thiên đàng... [14, tr.401].
      Chúng ta cũng có thể tìm thấy đặc điểm này trong tiểu thuyết Bến không chồng, ví dụ như những suy nghĩ của Nguyễn Vạn về mụ Hơn khi mụ đề nghị Vạn về sống với mình: “Cái con mụ Hơn đến là dơ. Trông hai con mắt nó cứ rừng rực. Không biết nó kính phục mình thật hay chỉ tí tởn để nỡm mình? Nó còn dám nhắc cả đến chuyện cái giường mà ngày xưa nó đã từng chềnh ễnh lên với chồng nó. Cũng chỉ tại ngày xưa mình hứa giúp bênh vực con nó nên bây giờ nó mới nhờn vậy...” [13, tr.332]...
      Nhân vật cũng có thể kể câu chuyện của mình cho một nhân vật khác. Trong Dưới chín tầng trời, nhân vật Nam đã kể cho tổng biên tập nghe câu chuyện mình hai lần chuẩn bị được kết nạp Đảng nhưng cuối cùng vẫn phải “xì tốp” vì những tội Nam không gây ra, một lần là “nhận lỗi thay thủ trưởng” Đào Vương, lần thứ hai là khi tướng Trung - bố Nam bị địch bắt. Đào Kinh cũng là một nhân vật đóng vai trò người kể chuyện khi kể về những thăng trầm trong cuộc đời của mình mới trở thành “tỉ phú thời nay” như mọi người xưng tụng... Trong Bến không chồng, mụ Hơn khi đến cầu xin Vạn cứu con mụ đã kể cho Vạn nghe hoàn cảnh của mình, chính lúc đó, mụ đã vô tình trở thành một người kể chuyện trong tác phẩm, từ đây, chúng ta hiểu hơn về hoàn cảnh xuất thân của người đàn bà này. Hay như nhân vật Cúc, khi kể cho Hạnh nghe về việc cô trả lại trầu cau cho anh Thành vì không thể chấp nhận được khuôn mặt bị biến dạng do chiến tranh của anh; nhân vật Thắm khi kể cho Hạnh nghe về mối tình vụng trộm của mình với chàng pháo thủ; nhân vật Biền khi kể cho Nghĩa nghe những chuyện xảy ra với anh sau lần về phép cùng Nghĩa... đều là những nhân vật đóng vai trò người kể chuyện kể về chuyện của mình cho nhân vật khác trong truyện nghe. Nhờ hình thức kể chuyện này mà chúng ta có thêm một cái nhìn khác về các nhân vật trong truyện, bởi qua những câu chuyện họ kể ta không chỉ nắm bắt thông tin về những chi tiết trong cốt truyện mà còn thấy được cả suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, thái độ của nhân vật trước những sự kiện đó. Đây là điều mà nếu chỉ sử dụng người kể chuyện “biết tuốt” thì khó có thể giải quyết một cách trọn vẹn để không tạo nên sự khiên cưỡng.
      Ngoài ra, nhân vật cũng có thể kể lại chuyện không phải của mình cho những nhân vật khác. Ví dụ như cô Lùn trong Dưới chín tầng trời kể về tình cảnh khốn cùng, đau xót của mấy mẹ con bà Cháo trong cảnh hỗn loạn khi chiến tranh biên giới nổ ra. Trong Bóng đêm và mặt trời, Bức cũng đóng vai trò người kể chuyện khi kể cho Nga nghe về những lời bàn tán của bạn bè, về sự thật cuộc hôn nhân giữa Nga và Bức - để trả thù, “một mối thù muôn đời muôn kiếp” [13, tr.102]; hay, cụ già đi tìm cháu mà Đô gặp trong trại giam cũng trở thành một người kể chuyện trong tiểu thuyết này khi cụ kể cho những cán bộ trại giam về cháu cụ, về lí do khiến nó bị bắt; Cô Nghĩa - mẹ Nga cũng đóng vai trò người kể chuyện lúc kể cho Nga nghe về cái chết và đám tang của Bức - chồng Nga... Trong Bến không chồng, các nhân vật: cụ Nghiên khi kể cho Nghĩa và Hạnh nghe những sự tích của làng; Vạn khi kể cho chị Nhân nghe những kỉ niệm về chồng chị ngày còn ở chiến trường với Vạn; chú Dĩ khi kể cho mọi người về việc từ đường họ Nguyễn bị cháy; bà Khiên khi kể cho mẹ con Hạnh nghe về việc ông Khiên đi đón đường Nghĩa vì biết Nghĩa lén đi bộ đội; bà Nhân khi kể cho Hạnh và Nghĩa nghe kỷ niệm về bố Hạnh; anh lái xe của Nghĩa khi kể về những người đồng đội của mình cho Hạnh, Dâu, Thắm nghe; Thao khi kể cho Thuỷ nghe về gia cảnh Nghĩa; chị cả của Nghĩa khi kể về Thuỷ cho Vạn và thím Xeng; cu Linh khi kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ nó và bác Huy - chồng cũ của mẹ cho Hạnh và Thắm nghe... đều là những nhân vật đóng vai trò người kể chuyện thuộc dạng này. Sử dụng người kể chuyện là nhân vật để kể những câu chuyện không phải của họ nhưng họ là người chứng kiến cho những nhân vật khác nghe, tác giả đã tạo nên độ tin cậy, tính khách quan, trung thực cho những sự kiện xảy ra trong cốt truyện mà người kể chuyện dị sự toàn năng khó có thể đảm nhiệm dù cũng kể về chúng, vì họ không trực tiếp cận kề với những sự việc đó như nhân vật.
      Tóm lại, sử dụng hình thức nhân vật đóng vai trò của người kể chuyện với ba dạng: nhân vật kể về mình hay người khác thông qua độc thoại, nhân vật kể chuyện mình cho nhân vật khác và nhân vật kể chuyện không phải của mình cho nhân vật khác trong truyện, Dương Hướng đã tạo nên những hiệu quả đáng kể trong nghệ thuật kể chuyện. Trước hết, sử dụng hình thức này chính là một cách để tạo nên tính đa chủ thể kể chuyện trong tác phẩm, từ đó góp phần tạo nên tính đa điểm nhìn và đa giọng điệu trong trần thuật. Thứ hai, nó giúp cho chúng ta không chỉ nắm bắt được các thông tin về câu chuyện mà còn thấy được suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật một cách khách quan, tránh được hiện tượng khiên cưỡng theo cái nhìn chủ quan của nhà văn nếu chỉ dùng người kể chuyện dị sự toàn năng. Thứ ba là tạo nên độ tin cậy cần thiết và tính sinh động cho những thông tin được đưa ra vì nó do những người đã chứng kiến kể lại. Cuối cùng, sử dụng hình thức này khiến cho cốt truyện không bị khép chặt trong kết cấu của cốt truyện truyền thống, mà được mở rộng, bởi đã tạo nên được “cái thừa” trong khi để cho nhân vật kể lại những sự kiện đã được người kể chuyện “biết tuốt” trình bày trong cốt truyện chính. Do vậy, dù người kể chuyện dị sự toàn năng vẫn là người kể chuyện xuyên suốt cả ba tiểu thuyết của Dương Hướng, nhưng khi đi sâu nghiên cứu tác phẩm, chúng ta cũng không thể bỏ qua hiện tượng các nhân vật của truyện, trong nhiều trường hợp, đóng vai trò như một người kể chuyện. Có như vậy mới thấy được cái hay trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết Dương Hướng, dù vẫn sử dụng người kể chuyện truyền thống: nhân vật không phải lúc nào cũng phụ thuộc mà đôi khi tạo ra sự độc lập đối với người kể chuyện dị sự, làm cho người kể chuyện dị sự cũng bị bất ngờ. Từ đó tạo nên tính bất ngờ của tiểu thuyết.
3.2 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng
      Người trần thuật chỉ có thể kể được những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian, trong trạng thái cảm xúc, trình độ văn hoá, tuổi tác, quan điểm tư tưởng, giá trị. Vì thế điểm nhìn cho biết vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện” [9, tr.104].
      Một trong những yếu tố làm nên đặc trưng của tiểu thuyết đó là “người viết tiểu thuyết có thể nhìn hiện tượng từ nhiều chiều, nhiều điểm nhìn...” [9, tr.303], do đó tiểu thuyết có tính đa điểm nhìn trần thuật. Tiểu thuyết Dương Hướng cũng không nằm ngoài đặc điểm đó. Với Dương Hướng, sự thật có bao nhiêu mối quan hệ, bao nhiêu cách nhìn thì đều được nhà văn nhìn nhận hết. Các sự vật, hiện tượng, con người trong tiểu thuyết của ông không bị khuôn cứng theo một cái nhìn chủ quan hay bị chi phối bởi một cái nhìn bên trên nào. Tất cả hiện lên một cách gần gũi, tự nhiên như nó vốn có. Vì thế, trong tiểu thuyết Dương Hướng, tồn tại nhiều loại điểm nhìn trần thuật khác nhau, chúng được tổ chức theo ý đồ của nhà văn nhằm tạo nên những hiệu quả nghệ thuật nhất định.
3.2.1 Các loại điểm nhìn trần thuật
      Sử dụng người kể chuyện “biết tuốt”, kết hợp với việc sử dụng nhân vật trong vai trò của người kể chuyện, Dương Hướng đã tạo nên nhiều dạng điểm nhìn khác nhau trong tiểu thuyết: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ...
      Điểm nhìn bên ngoài được sử dụng khi người trần thuật miêu tả sự vật, hiện tượng và con người từ những biểu hiện bên ngoài, không phân tích, bình luận, lý giải hay để lộ cảm xúc... Điểm nhìn này xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Dương Hướng bên cạnh các điểm nhìn khác, nó cho thấy thái độ khách quan của người trần thuật đối với sự việc được mô tả. Ví dụ như khi miêu tả hình ảnh Nguyễn Vạn trở về làng sau chiến dịch Điện Biên:“Nguyễn Vạn tập tễnh bước. Đàn chim két ào qua vạch một đường cong ngang trời. Cây duối già đầu cánh mả Rốt lơ thơ mấy chiếc lá cong queo” [13, tr.266], cảnh Hoàng Đô thả diều thuở bé: “Gió mơn man trên đồng cỏ, thằng con trai choai choai vừa chăn trâu vừa thả diều, chiếc diều cánh cốc trắng muốt khẽ chao liệng, chấp chới trên nền trời xanh ngắt. Nắng chiều vàng rực tiếng sáo diều vi vu vi vu...” [13, tr.21] hay cuộc gặp mặt của các trí thức tỉnh nhà mà Nam là nhà báo được cử đi viết bài:“Khẩu hiệu, cờ đỏ sao vàng và những lẵng hoa tươi thắm đủ sắc màu rực rỡ, trưng ra trước mắt các đại biểu. Hoàng Kỳ Nam đến hội nghi với tư cách là phóng viên viết bài cho báo tỉnh” [14, tr.106]... đều sử dụng điểm nhìn bên ngoài.
      Điểm nhìn bên trong cũng được sử dụng khá dày đặc trong tiểu thuyết Dương Hướng, giúp ta thấy được những diễn biến tâm lý, cảm xúc, suy nghĩ đang diễn ra bên trong các nhân vật. Nó thể hiện trong những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật nói lên tiếng lòng của chính họ, như lời tâm sự của Đào Kinh trong Dưới chín tầng trời là một ví dụ: “Ta biết nàng ca sĩ sẵn sàng theo ta đâu phải vì ta trẻ trung, tài cán gì. Nàng yêu túi tiền của ta đấy thôi... Ta yêu nàng bởi ta cô đơn. Đời ta có nhiều tiền cũng chẳng để làm gì ngoài cung phụng cho thú vui tình ái” [14, tr.400]. Nó cho thấy những đau đớn, dằn vặt, suy tư, như tâm trạng của thương gia Đức Cường trong ngày cưới Thu Cúc:“Chưa bao giờ ông thấy mình cô đơn như lúc này, chưa bao giờ ông thấy mình lại chán nản như lúc này. Ông là kẻ thất bại thảm hại nhất trên đời...Ông đã trở thành kẻ có tội với vợ con” [14, tr.279]... Nó cũng có thể là niềm vui, niềm hạnh phúc của nhân vật, như Hạnh trong Bến không chồng sau đêm tân hôn: “Nằm lại một mình Hạnh thấy lâng lâng. Giây phút đê mê khoái cảm trong vòng tay Nghĩa vẫn còn sống động trên da thịt nóng bừng của Hạnh... Bây giờ nghĩ lại Hạnh thấy nó buồn cười” [13, tr.343]... Và cũng có khi, điểm nhìn ấy nói lên những đánh giá của nhân vật về những nhân vật khác, ví như Vạn nghĩ về mụ Hơn trong Bến không chồng: “Cái con mụ Hơn đến là dơ. Trông hai con mắt nó cứ rừng rực. Không biết nó kính phục mình thật hay chỉ tí tởn để nỡm mình... Cũng chỉ tại ngày xưa mình hứa giúp bênh vực con nó nên bây giờ nó mới nhờn vậy...” [13, tr.332]...
      Điểm nhìn không gian cũng được sử dụng trong tiểu thuyết Dương Hướng. Lúc này, sự vật, hiện tượng hay con người được xác định theo chiều không gian: xa, gần, cao, thấp, trên, dưới, trong, ngoài... Ví như, trong Dưới chín tầng trời khi miêu tả sự việc Đào Vương trở về, người kể chuyện đã kể qua điểm nhìn không gian:
Từ trong nhà, cô Cam nhìn ra xa phía sân hợp tác, nơi mọi người đang hối hả trục lúa... Một chiếc xe Jeep bỗng nhiên xuất hiện trên đường làng lao đến đỗ cạnh sân kho. Tất cả mọi người đang đi vòng quanh sân lúa bỗng chạy túa ra như cơn gió vây lấy chiếc xe... cô Cam đẩy cửa chạy ra đường. Cô chúi mũi chạy lên dốc cầu Đình Đoài thì gặp chiếc xe từ bên kia dốc cũng leo lên cầu. Cô Cam đứng sững giữa cầu [14, tr.327].
      Khung cảnh cánh mả Rốt trong buổi chiều Trần Tăng và Tuyết đi bộ cùng nhau sau ngày xã Chiến Thắng đón nhận danh hiệu anh hùng cũng được nhìn với điểm nhìn này:“Xa xa chân trời phía đông đùn lên những quầng mây xám bay theo gió tạt về trời tây. Phía trời tây, nắng vẫn phủ vàng cánh đồng làng Đoài. Cánh mả Rốt sáng lên lấp loáng những ngôi mộ đủ sắc màu rực rỡ” [14, tr.498]. Trong Bến không chồng, ta cũng bắt gặp điểm nhìn không gian qua cái nhìn của Vạn về cánh mả Rốt ngày Vạn về làng: “Cánh mả Rốt dày đặc những mồ mả mấp mô mà Vạn vẫn còn nhận ra mộ bố nằm bên mép ruộng cạnh một ngôi mộ xây bằng gạch giống như ngôi miếu nhỏ. Trên trốc mộ bố Vạn xưa, đóng một cây cọc to bằng bắp chân, giờ đã mục rữa trơ lõi nhọn hoắt như một mẫu xương gãy” [13, tr.267].
      Ngoài ra, trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có điểm nhìn thời gian. Nó không chỉ thể hiện thông qua hồi tưởng của một số nhân vật: Vạn (Bến không chồng) nhớ về tuổi thơ khi ngang qua cánh mả Rốt ngày Vạn ở chiến trường về, Ngô Quất (Bóng đêm và mặt trời) nhớ về những ngày y cùng cha mẹ còn làm nghề gắp cứt mà trở nên giàu có cho đến ngày y đứng ra đấu tố bố mình...; mà đôi khi còn hiện lên trong sự đối sánh sự việc giữa hiện tại và quá khứ qua suy nghĩ của nhân vật. Có thể thấy sự đối sánh ấy qua suy nghĩ của Đào Kinh (Dưới chín tầng trời) khi nghe Hoà kể chuyện Măng ngoại tình mà không làm gì được: “Thằng Hoà nói đúng! Biết chắc vợ mình ngủ trong nhà với giai mà đếch làm gì được. Thời buổi bây giờ cũng rõ thật là... Chẳng khác chi mấy chục năm về trước, Đào Kinh cũng bắt quả tang Trần Tăng ngủ với nàng Cam Quýt Mít Dừa ngay trên giường của mình mà có làm đếch gì được đâu. Con Măng bây giờ cũng giống mẹ Cam nó xưa” [14, tr.323]...
      Bên cạnh đó, điểm nhìn tâm lý cũng góp phần làm nên sự đa dạng về điểm nhìn trong tiểu thuyết Dương Hướng. Điểm nhìn này có thể tìm thấy ở cả ba tiểu thuyết của Dương Hướng. Đó có thể là tâm trạng cô đơn, lạc lõng của thằng Đô vào ngày mẹ nó đi bước nữa (Bóng đêm và mặt trời); tâm trạng buồn vui lẫn lộn của Vạn trên đường đến nhà thờ họ ngày chạp tổ, thái độ giận dỗi của thằng Nghĩa khi chú Vạn không cho Hạnh đi ăn cỗ nhà nó, cảm giác hẫng hụt, mất mát của bà Khiên khi rời bỏ ngôi nhà của dòng họ mà bà gắn bó gần trọn cuộc đời để theo Nghĩa lên thành phố (Bến không chồng); những suy nghĩ, cảm xúc của Đào Kinh trong lần đến thăm Măng sau khi thấm thía nỗi cô đơn buồn chán của đời sống vật chất phù hoa, hay cảm giác chạnh lòng khi nghĩ về cái chết trong sự cô đơn, không biết nằm đâu cho yên ả đằng sau một cuộc đời ngỡ oai hùng của Trần Tăng (Dưới chín tầng trời)... Tất cả những trạng thái cảm xúc, những thăng trầm trong cuộc đời nhân vật như thế đều được đặt trong điểm nhìn tâm lý để khai thác. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận được từng nhịp đập của cuộc sống thông qua những điểm nhìn theo từng lứa tuổi, giới tính hay sự trải nghiệm của nhân vật là chủ thể của cái nhìn ấy.
      Cùng với các loại điểm nhìn trên, trong tiểu thuyết của mình, Dương Hướng đã khai thác khá thành công điểm nhìn tư tưởng, ý thức hệ ở phương diện lập trường giai cấp cực đoan, đặc biệt là trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời. Dưới ngòi bút của ông, chính điểm nhìn tư tưởng, ý thức hệ mang tính cực đoan của những cá nhân được xem là “nhân vật anh hùng của thời đại” đã đẩy bao số phận đến bờ bi kịch. Nó có thể là điểm nhìn của Trần Tăng đối với gia đình địa chủ Hoàng Kỳ Bắc, là điểm nhìn của Hoàng Kỳ Trung, Thu Cúc đối với Thương Huyền và gia đình thương nhân Đức Cường. Đó là cái nhìn cứng nhắc, “bửa đôi thế giới” thành hai nửa đối kháng nhau, không phải ta thì là địch, khác ta cũng là địch. Do vậy, họ nhìn đâu cũng thấy nghi gờ, cần phải cảnh giác. Vì điểm nhìn ấy, trước kia, Trần Tăng một mực quy kết cho ông Hoàng Kỳ Bắc là địa chủ cường hào, Việt gian phản động; đến lượt Hoàng Kỳ Trung cũng vội vàng quy cho gia đình thương nhân Đức Cường và Thương Huyền là những kẻ thù không đội trời chung. Thu Cúc cũng mang điểm nhìn đó để đánh giá sự việc:
Chuyện gì Thu Cúc cũng có thể nâng thành quan điểm lập trường giai cấp. Tuy chế độ nguỵ quyền đã bị tiêu diệt, nền kinh tế tư bản tư nhân đã suy sụp, tài sản nhà thương gia Đức Cường đã quốc hữu hoá hết, nhưng Thu Cúc vẫn nhìn Thương Huyền như thứ độc dược, ai động vào sẽ chết. Còn với anh Đức Thịnh, Thu Cúc vẫn luôn cảnh giác có ngày anh nổi loạn [14, tr.295].
      Với điểm nhìn đó, Trần Tăng đã tạo nên kết cục bi thảm cho gia tộc Hoàng Kỳ: Hoàng Kỳ Bắc bị bắn chết, vợ ông tự mổ bụng để chứng minh sự trong sạch, tài sản bị tịch thu chia cho nông dân. Thu Cúc thì làm tan nát gia đình thương nhân Đức Cường: Ông Đức Cường do ân hận, tuyệt vọng vì đã lái con thuyền gia tộc đi sai hướng để cho đứa con trai lẽ ra có cả cơ nghiệp giờ phải ngày ngày cậm cạch đi bán báo, đứa con gái phải sống nơi rừng xanh núi đỏ mà uống thuốc tự tử; vợ ông không chịu nổi cũng đi theo; Đức Thịnh bị bắt vì nghi ngờ tụ tập chống phá cách mạng rồi chết trong nhà giam; Thương Huyền thì dở ngây dở dại... Tạo ra điểm nhìn này, Dương Hướng đã giúp cho chúng ta tiếp cận lịch sử một cách chân thật hơn, nhận thức đúng đắn hơn về lịch sử, về cả những mặt vinh quang cũng như những sai lầm, điếm nhục của nó.
      Có thể nói, Dương Hướng đã sử dụng một hệ thống điểm nhìn khá phong phú trong tiểu thuyết của mình. Tuy nhiên, những điểm nhìn này đều mang tính phi sử thi. Tác giả không sử dụng chúng để nhìn những điều lớn lao, kỳ vĩ mà để soi chiếu đời thường của nhân vật với những điều vụn vặt, đang tiếp diễn, những cảm xúc nhất thời, những không gian, thời gian mang tính thế sự, đời tư...
3.2.2 Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn
      Do đặc điểm của điểm nhìn trần thuật là “thường di động, dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, lúc tới gần, lúc lùi xa, luôn thay đổi góc độ quan sát” [9, tr.107] nên trong tiểu thuyết của mình, Dương Hướng không tách biệt rạch ròi giữa các điểm nhìn mà có sự luân chuyển và phối hợp giữa chúng với nhau trong khi nhìn nhận một đối tượng nào đó.
      Sự luân chuyển và phối hợp này không chỉ xảy ra giữa các loại điểm nhìn với nhau tạo nên điểm nhìn trần thuật của tác phẩm, mà còn xảy ra giữa điểm nhìn của chủ thể này với điểm nhìn của chủ thể khác khi cùng nhìn về một đối tượng và ngay trong từng loại điểm nhìn - giữa các kiểu điểm nhìn nhỏ hơn với nhau.
      Về sự luân chuyển và phối hợp giữa các loại điểm nhìn, nó có thể là sự luân chuyển và phối hợp giữa điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong khi miêu tả một nhân vật hay hiện tượng nào đó. Ví như, khi miêu tả vẻ man dại của Hạnh sau khi li hôn với Nghĩa, liền kề với điểm nhìn bên ngoài miêu tả hiện tượng là điểm nhìn bên trong của nhân vật Vạn, cho thấy suy nghĩ của nhân vật trước hiện tượng đó: “Hạnh cười hơ hớ mắt nhìn xoáy vào những tấm huân chương trên ngực chú Vạn. Nguyễn Vạn nhìn trong mắt con Hạnh có màu đỏ. Chả lẽ trong người nó có ma. Rõ ràng Vạn nghe tiếng cười của nó cũng là lạ, man dại. Trông dáng điệu nó háo hức phởn phơ nhảy nhót trước mặt Vạn” [13, tr.550]... Nó cũng có thể là sự luân chuyển, phối hợp giữa điểm nhìn bên trong với điểm nhìn tâm lý: “Càng nghĩ, Trần Tăng càng lo cho cái sự chết của mình. Tay Đào Kinh chết đi còn có nàng Mai Tàu, bà Cam và cả con Măng lo hậu sự. Ta mà chết đi, ngoài trung ương và con Măng ra chả có ai thân thích xót thương. Ta đã sống một cuộc đời ngỡ oai hùng hoá ra cuối đời chẳng còn gì. Cả tới lúc chết cũng không biết nằm đâu cho yên ả” [14, tr.496]... Và cũng có thể nó là sự luân chuyển, phối hợp giữa điểm nhìn bên trong với điểm nhìn thời gian: “Cái con mụ Hơn đến là dơ. Trông hai con mắt nó cứ rừng rực. Không biết nó kính phục mình thật hay chỉ tí tởn để nỡm mình? Nó còn dám nhắc cả đến chuyện cái giường mà ngày xưa nó đã từng chềnh ễnh lên với chồng nó. Cũng chỉ tại ngày xưa mình hứa giúp bênh vực con nó nên bây giờ nó mới nhờn vậy...” [13, tr.332] ...
      Sự luân chuyển, phối hợp giữa điểm nhìn của chủ thể này với điểm nhìn của chủ thể khác biểu hiện ở việc tác giả để cho các nhân vật khác nhau nhìn nhận, đánh giá về cùng một đối tượng. Ví dụ như, Thương Huyền trong mắt Hoàng Kỳ Trung là kẻ thù không đội trời chung do hiểu lầm trong quá khứ; với Thu Cúc: “Chị nhìn Thương Huyền vẫn chỉ là loại gái nhảy trong sở Mỹ quen ăn trắng mặc trơn, lười lao động, sống thác loạn không chí hướng” [14, tr.295] bởi những định kiến, lập trường giai cấp cực đoan; nhưng với Hoàng Kỳ Nam và Hall thì đó là một người phụ nữ tuyệt vời, vì thế mà Nam sẵn sàng từ bỏ người vợ mình không yêu, từ bỏ công việc để chăm sóc Thương Huyền khi cô mắc bệnh tâm thần. Hay, nhân vật Trần Tăng, trong mắt Nam, ông đi đến đâu cũng luôn được xếp ở vị trí “Thái thượng hoàng”, ông toả bóng xuống cuộc đời biết bao người: Đào Kinh, Cam, Tuyết, Yến Quyên và cả Nam nữa; trong mắt Đào Kinh, ông là “cái bóng luôn song hành” [14, tr.27] bên cạnh cuộc đời Kinh, là cái bóng mà suốt đời Kinh không thể nào thoát ra được, “căm thù mà vẫn phải khuất phục” [14, tr.27]; trong mắt Tuyết: “Ông có một uy quyền mà mọi người không có” [14, tr.468], nhưng cô cũng nhận ra rằng: “xã hội không có những người như ông thì thời cuộc sẽ khác, con người sẽ bớt khổ” [14, tr.470]...
      Trong mỗi loại điểm nhìn, sự luân chuyển, phối hợp đó có thể là luân chuyển, phối hợp giữa điểm nhìn gần và điểm nhìn xa trong điểm nhìn không gian: “Ngoài kia là dòng sông làng Đoài, chiếc cầu cong cong và khoảng sân hợp tác xã mới ngày nào Vương và Nam cùng lũ trẻ làng Đoài chơi trò xử tử, ném trứng thối vào hình nộm Ngô Tổng thống... Cam thấy cồn cào gan ruột cố gượng dậy hé mở ô cửa sổ. Gió hun hút. Một khoảng trời bao la hiện ra” [14, tr.328]...; giữa điểm nhìn hiện tại và điểm nhìn quá khứ trong điểm nhìn thời gian: “Dòng sông quê hương ngày nào Vạn còn ngụp lặn cùng con trâu sứt nhà Hào, nay bỗng xao động reo vui cùng Vạn. Lòng Vạn rộn lên vui buồn lẫn lộn...” [13, tr.302], hay: “Thời buổi bây giờ cũng rõ thật là... Chẳng khác chi mấy chục năm về trước, Đào Kinh cũng bắt quả tang Trần Tăng ngủ với nàng Cam Quýt Mít Dừa ngay trên giường của mình mà có làm đếch gì được đâu. Con Măng bây giờ cũng giống mẹ Cam nó xưa” [14, tr.323]...
      Việc luân chuyển và phối hợp các điểm nhìn như trên không chỉ thể hiện được tính chất của điểm nhìn trần thuật mà còn góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật sinh động, dân chủ, nhiều tầng nghĩa trong tiểu thuyết Dương Hướng. Với cách tổ chức đó, sự vật, hiện tượng, nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn sẽ được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, giúp cho việc đánh giá về chúng trở nên khách quan, trung thực và gần gũi với cuộc sống thường nhật hơn. Điều này góp phần thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc sống và con người. Chính từ đây, chúng ta cũng phần nào nhận ra được bản chất của tiểu thuyết chính là sự ghép nối nhiều mảng của hiện thực đời sống.
3.3 Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng
Giọng điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,...” [9, tr.134 - 135].
      Trong tự sự, chủ thể lời nói là người kể chuyện hoặc nhân vật, còn đối tượng được nói đến là nhân vật tự trào hoặc một nhân vật khác. Vì vậy, nhân vật chỉ là phương tiện để tác giả tạo ra giọng điệu trong tác phẩm. Trước đây, người ta quan niệm giọng điệu gắn với cảm hứng, nghĩa là gắn với nhân vật. Tuy nhiên, xét ở cấp độ khái quát nhất, ta nhận thấy giọng điệu của người kể chuyện hiện ra sau giọng nhân vật, vì thế, khi nói đến giọng điệu của một tác phẩm bất kì phải xét đến chỗ tận cùng của nó - giọng người trần thuật - mới đưa ra được những kiến giải đúng.
      Mỗi nhà văn lớn đều có một giọng điệu riêng. Nhà văn Dương Hướng tuy chưa dám gọi lớn là “cây đa cây đề” trong làng văn học, nhưng cũng là một trong những nhà văn đã để lại dấu ấn trong nền văn học Việt Nam ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, vì thế, ông cũng có giọng điệu trần thuật riêng mới không bị hoà lẫn vào dòng chảy của văn học đương thời. Trong nghệ thuật tiểu thuyết, giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết Dương Hướng nổi lên ba đặc điểm quan trọng:
3.3.1 Giọng điệu trần thuật, phân tích
      Giọng trần thuật, phân tích là giọng kể khách quan bình thản, không bè phái, thiên vị... Nó thể hiện sắc độ chân thành của người kể. Sự thật vốn thế nào thì kể như thế ấy. Giọng điệu này được tạo ra bởi quan niệm “thành thực với chính mình” của tác giả. Biểu hiện cao nhất của nó là việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng từ nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau từ đó tìm đến nguyên nhân sau cùng: con người. Chính bởi giọng điệu này mà các nhân vật trong tiểu thuyết Dương Hướng được phân tích đến tận cùng bản ngã của chính nhân vật.
      Nhân vật Đào Kinh (Dưới chín tầng trời) được phân tích như một chủ thể đầy ngu ngốc, nhưng mặt khác lại cũng lắm mưu toan. Đó chính là hai mặt trong một con người Đào Kinh. Qua đó, nhà văn hướng đến giá trị nhân bản trong con người y. Để có thể phân tích được con người nhân vật này, chúng ta cần chú ý đến những điểm mấu chốt trong cuộc đời nhân vật, lý giải chúng, ví như: Tại sao Đào Kinh lại theo phong trào cải cách ruộng đất? Tại sao y lại đi tù? Tại sao lại thành đạt, trở thành tỷ phú?... Qua đó để thấy được Kinh chính là sản phẩm của xã hội - “thời thế thế thời phải thế”, như cách nói của nhân vật. Đào Kinh có may mắn (được Hoàng Kỳ Bắc cưu mang, gặp được Mai - người tình Trung Hoa của y...), nhưng nếu chỉ có may mắn thôi thì tại sao Kinh lại phải bỏ làng mà đi, phải vào tù ra tội? Nếu Kinh không biết tính toán thì sao lại có thể nghĩ ra việc bán căn phòng duy nhất mình đang ở để mua mấy căn nhà cấp bốn mà chỉ sau một năm giá đã tăng lên gấp mười lần? Nếu không mưu mô thì làm sao Kinh biết dùng tiền để nắm trong tay người có tài và có quyền nhằm giúp mình ngày càng thành đạt hơn?... Như vậy, ở nhân vật Đào Kinh, đúng là có yếu tố may mắn, nhưng đó không phải là may mắn ngẫu nhiên như Xuân Tóc Đỏ, mà ở đây đã có sự nỗ lực, bản lĩnh, trí tuệ và ý chí làm giàu, cộng thêm sự bảo kê của những kẻ có quyền chức đã giúp Kinh phất lên như diều gặp gió.
      Hoàng Kỳ Trung (Dưới chín tầng trời) là một nhân vật anh hùng. Nhưng nhân vật này cũng được xây dựng trên hai mặt trái ngược nhau. Một mặt, Hoàng Kỳ Trung là người người cộng sản kiên cường với những đặc điểm tiêu biểu: ý chí sắt đá, giữ vững lập trường quan điểm đến cùng, nêu gương tinh thần bất khuất, bị địch tra tấn dã man không khai nửa lời... Mặt khác, đây là một con người ấu trĩ, cũng có những khuyết điểm, méo mó kỳ quặc: “nói câu nào cũng dùng mệnh lệnh” [14, tr.340], không cho phép bất kỳ ai nói ý kiến riêng của mình, lập trường quan điểm một cách cứng nhắc, chỉ thấy địch và ta, không phải ta thì là địch, và thế là ở đâu cũng thấy địch. Vì thế, ông sẵn sàng quy kết vội vàng cho Thương Huyền là “kẻ thù không đội trời chung” mà không cần biết đến nội tình bên trong. Tuy nhiên, Dương Hướng không dừng lại ở đó trong khi xây dựng hình tượng tướng Hoàng Kỳ Trung, bởi nếu chỉ dừng lại ngang đó thì sẽ khiến người đọc dễ liên tưởng rằng nhân vật này một con người đơn giản, khờ khạo, thậm chí ngu ngốc. Với sự tinh tế, sâu sắc của mình, nhà văn chỉ ra một Hoàng Kỳ Trung khác đằng sau một Hoàng Kỳ Trung “méo mó” đó. Con người ấy đã sớm thấy và luôn luôn thấy những mặt trái của cách mạng. Cách mạng lớn lao và hào hùng nhưng mặt trái của nó cũng vô cùng khủng khiếp. Ý thức được điều đó, ông đã có một cách ứng xử trước bộ mặt hết sức phức tạp của cách mạng. Cách ứng xử của ông là “phải nuốt hận trong lòng”, là “phải chịu đựng được cả lỗi lầm xấu xa tồi tệ của thời đại mình đang sống” [14, tr.346], để không bị “lịch sử nghiền nát” [14, tr.345]. Minh triết của ông là “thời thế thế thời phải thế” [14, tr.345]. Như vậy, Hoàng Kỳ Trung đâu phải là kẻ khù khờ, ông thấy cả và hiểu hết, chỉ có điều ông có cách hành xử riêng của mình mà ngoài Yến Quyên - người vợ ông thương yêu và nể trọng - không phải ai cũng hiểu được.
      Nhân vật Măng (Dưới chín tầng trời) cũng là một nhân vật mà chỉ có giọng trần thuật, phân tích mới giúp cho người đọc hiểu đúng về con người này. Măng trước hết là một người đàn bà gian ngoan và táo tợn, nhờ thế, từ chỗ là một người con gái “chân đất mắt toét”, Măng trở thành người “đàn bà giàu nhất nước Nam ta” [14, tr.19]. Măng biết dựa vào quyền lực để kiếm tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Măng sẵn sàng hư hỏng để mua chuộc bất cứ ai, biết kinh doanh cái mình có để có cái mình muốn. Măng nổi tiếng là “con điếm chính trị” [14, tr.393]. Theo lời đồn đại, cô có thể “thiết kế cho một thằng ngu dốt nhảy phóc một phát vào ghế này ghế nọ, và cũng sẵn sàng hạ bệ tống khứ một vị bộ trưởng tài ba vào tù hoặc về vườn” [14, tr.393]. Tuy nhiên, bên cạnh con người gian ngoan, táo tợn đó, tác giả vẫn để cho chúng ta nhận ra ở Măng còn có “chất chân quê” và “tốt bụng”, cũng có những khát vọng hạnh phúc tình người giản dị... Vì thế, nếu như kể bằng giọng trữ tình thì đôi khi ta khó có thể tìm thấy được mặt thứ hai của nhân vật này.
      Cũng như vậy, nhân vật Vạn (Bến không chồng) nhìn trên đại thể là một nhân vật tốt. Anh là người anh hùng trong chiến dịch Điện Biên. Trở về làng, Vạn muốn biến mình trở thành “thánh nhân”. Anh chọn cho mình lối sống khắc kỷ, khinh bạc vật chất tầm thường và những thú vui trần thế, anh đặt niềm tin lớn lao vào lý tưởng cách mạng... Tuy nhiên, nếu chỉ như thế thì con người Nguyễn Vạn đã quá giản đơn và xa rời cuộc sống trần thế. Với giọng trần thuật, phân tích của tiểu thuyết, mà cụ thể là của người kể chuyện, chúng ta đã nhìn thấy được những gương mặt khác của con người này. Trước hết, vì Vạn chọn cho mình lối sống khắc kỷ, xa rời niềm vui trần thế nên anh cũng đã từ chối luôn tình yêu duy nhất của đời mình, không dám thừa nhận nó. Với Vạn, “Trên đời này còn bao nhiêu chuyện ràng buộc: danh dự, uy tín...” [13, tr.411], vì thế anh không thể nói với chị Nhân rằng; “Tôi yêu chị” [13, tr.411]. Thứ hai, vì đặt niềm tin lớn lao vào lý tưởng cách mạng, nhưng khối lý tưởng đó của Vạn là khối lý tưởng cứng nhắc, vì thế anh sẵn sàng bắn vào người thân nếu chính quyền cách mạng yêu cầu, dù cho điều đó có thực sự đúng hay không. Thứ ba, Vạn muốn biến mình “thánh nhân”, nhưng rốt cuộc Vạn cũng đâu có phải là “thánh nhân”. Con người bên trong của Vạn không nguôi khát khao một mái ấm gia đình. Đã có những lúc, con người bản năng đã thực sự quẫy đạp trong Vạn, đó là lúc mụ Hơn qua xin muối rồi cầm tay Vạn đặt lên ngực mụ, là khi chị Nhân trong một giây phút không giữ nổi mình đã ôm chầm lấy Vạn và bàn tay Vạn đã lướt nhẹ trên người chị. Nhưng sau những giây phút đó, lí trí của Vạn đã chiến thắng bản năng. Chỉ đến khi, trong một đêm mưa gió, Hạnh lao vào người chú Vạn, Vạn đã không thể kiểm soát được bản năng của mình: “Sự ham muốn của Nguyễn Vạn lần này còn mãnh liệt hơn lần Vạn chạm tay vào ngực mụ Hơn. Vạn buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên thân thể rừng rực của người đàn bà. Lần đầu tiên trong đời Vạn thấy sung sướng cực độ và quên hẳn mình” [13, tr.550 - 551]. Và thế là phần “con người” đã thắng phần “thánh nhân” trong Vạn. Nhưng khi hạnh phúc ập đến quá bất ngờ, Vạn chưa được chuẩn bị để đón nhận hạnh phúc cả một đời chưa từng được hưởng - làm chồng, làm cha - thì anh đã không những để tuột mà còn mù quáng tìm đến cái chết, như một sự chạy trốn, kết liễu phần “thánh nhân” mà bao năm Vạn ép xác xây dựng. Như vậy, từ việc thấy được những mặt khác nhau trong con người Nguyễn Vạn, chúng ta mới có thể đánh giá đúng về nhân vật này.
      Nhân vật Bức (Bóng đêm và mặt trời) cũng được kể bằng giọng trần thuật, phân tích ấy. Bức khi nhỏ là một cậu bé “láu lỉnh, hư đốn, nghịch ngợm như quỷ, bắt nạt tất cả những đứa trẻ trong làng” [13, tr.89], nhưng càng lớn lên càng “lầm lỳ, ngô ngố” [13, tr.89], Bức làm mọi việc lão Kình - ông nội Bức - sai bảo “một cách dẻo dai” [13, tr.89]. Ngay việc Bức lấy Nga cũng là do sự sắp đặt của lão Kình để trả thù việc bố Nga đã cho treo cổ bố Bức. Nhưng sau khi lấy Nga, Bức đã thực sự thay đổi bởi tình yêu mà Bức dành cho Nga. Bức đã không còn nghe theo mọi sự sắp đặt của gia đình mà đã có những quyết định cho riêng mình, sống đúng với tính cách của mình. Bức làm nhà riêng cho hai vợ chồng, tình nguyện đi bộ đội. Từ đây, Bức không còn mang bộ mặt “đờ đẫn ngây dại” như trước nữa mà “hồng rực lên” [13, tr.134]. Những tưởng con người Bức chỉ biết “hung hăng quá trớn” và “tính khí nóng như lửa” [13, tr.170] - đã từng làm hỏng cả con đường sự nghiệp, những tưởng Bức chỉ biết ghen tuông ích kỉ vì quá khứ của vợ. Nhưng không, con người Bức đã hiện lên đầy đủ bằng một nét vẽ cuối cùng khi tác giả để cho Thu Nga sau mười tám năm xa cách gặp lại chồng và phát hiện ra con người cao đẹp trong anh: “Anh cao thượng và đẹp đẽ biết bao nhiêu. Anh xua đuổi chị không phải vì khinh ghét chị... Anh đã phải hy sinh và chịu đựng đau đớn nhiều rồi mà bây giờ anh lại muốn chạy trốn khỏi chị để chị thanh thản đi tìm hạnh phúc mới” [13, tr.237]. Có thể nói, nhân vật Bức là nhân vật đã có những biến chuyển trong tính cách, từ xấu sang tốt, từ thấp hèn sang cao thượng. Nếu không có giọng kể trần thuật, phân tích một cách khách quan thì tác giả khó có thể tạo ra một nhân vật như thế.
      Một vài nhân vật trên chỉ là những ví dụ chứng minh cho việc sử dụng giọng điệu trần thuật, phân tích trong khi xây dựng hình tượng nhân vật của tiểu thuyết Dương Hướng. Không chỉ có những nhân vật ấy mà hầu như với bất cứ nhân vật nào, dù là chính hay phụ, chính diện hay phản diện thì cũng được kể và tả thông qua giọng điệu này. Chỉ có giọng trần thuật, phân tích như thế mới có thể giúp chúng ta tìm ra được giá trị nhân bản, mới đưa ra được kết luận cuối cùng sau khi xem xét sự vật, hiện tượng từ nhiều góc độ khác nhau.
3.3.2 Các sắc điệu trữ tình
      Bên cạnh giọng trần thuật, phân tích, trong tiểu thuyết Dương Hướng còn có những sắc điệu trữ tình. Nó cho thấy thái độ của nhà văn đối với hai sắc thái tích cực và tiêu cực trong đời sống xã hội. Đối với sắc thái tích cực, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết là các giọng: ngợi ca, bi tráng và trữ tình, xót xa; đối với sắc thái tiêu cực thì các giọng được sử dụng là: giễu nhại, cười cợt và phê phán, tố cáo.
  3.3.2.1 Giọng ngợi ca, bi tráng và trữ tình, xót xa
      3.3.2.2.1 Giọng ngợi ca, bi tráng
      Một trong những đề tài xuyên suốt trong tiểu thuyết Dương Hướng là đề tài chiến tranh và người lính. Viết về đề tài này, Dương Hướng không thể không sử dụng giọng điệu mang âm hưởng ngợi ca, bi tráng. Qua đó, Dương Hướng phần nào đã tái hiện lại không khí hào hùng nhưng cũng thật bi thương của một thời lịch sử đầy “máu và hoa” của dân tộc.
      Chất giọng ngợi ca được dùng để kể về hình ảnh của những đoàn quân hùng dũng tiến vào nơi lửa đạn: “Bom pháo địch dội xuống bất cứ lúc nào đoàn quân vẫn hừng hực tiến vào chiến truờng tiêu diệt kẻ thù” [14, tr.132], hay hình ảnh gan dạ của người lính: “Cả đơn vị kinh hoàng nhìn một mình Vương ôm bộc phá xông lên dưới làn đạn dày đặc của địch. Trong chớp nhoáng, Vương đánh bộc phá nổ tung điểm chốt đầu cầu, hành động như một vị anh hùng. Cả đơn vị hò reo theo Đào Hồng Vương xông lên chiếm lĩnh trận địa, mở màn cho chiến dịch giải phóng thành phố” [14, tr.136].
      Chất giọng bi tráng lại được sử dụng khi nói đến sự khốc liệt của chiến tranh:
Mùi da thịt cháy lẫn mùi thuốc bom pháo khét lẹt. Đô lần mò trong đêm tối rờ rẫm tìm đồng đội. Tất cả đã chết trong im lặng. Chết trong lòng đất, chết trên giao thông hào... Đồng đội của anh người bị cụt đầu, cụt chân, bị vùi lấp nửa người, người bị cháy thui, người nằm co quắp trên đất. Đô không còn nhận ra ai với ai. Đô áp tai xuống từng cái xác lắng nghe cố tìm kiếm sự sống trong cái thế giới đầy chết chóc [13, tr.183].
      Tuy nhiên, giọng ngợi ca còn được dùng khi miêu tả chân dung những con người chí nghĩa, chí tình, nhân hậu, kiên trung: Yến Quyên, Hoàng Kỳ Nam, thương gia Đức Cường (Dưới chín tầng trời), Hoàng Đô (Bóng đêm và mặt trời), Hạnh, bà Nhân (Bến không chồng)..., hay những nhân vật trong một hoàn cảnh nào đó đã có những hành động cao đẹp: Đào Kinh, Vương, Hoàng Kỳ Trung (Dưới chín tầng trời), Bức (Bóng đêm và mặt trời)...
      Dù được sử dụng với mục đích gì thì giọng điệu này cũng tạo nên một nét vẽ mạnh mẽ trong tiểu thuyết Dương Hướng.
      3.3.2.2.2 Giọng trữ tình, xót xa
      Nếu giọng điệu ngợi ca, bi tráng thể hiện không khí hào hùng của cuộc kháng chiến vĩ đại và tinh thần chiến đấu của những người anh hùng trên chiến trận, hay những phẩm chất cao đẹp của con người, thì giọng trữ tình, xót xa lại luồn sâu vào thế giới nội tâm, và số phận nhân vật để lột tả những cung bậc tình cảm của con người.
      Thông qua lời tâm sự của Bức với Nga, bằng chất giọng trữ tình, Dương Hướng đã giúp chúng ta nhận ra được hình ảnh những con người đang tồn tại quanh ta, âm thầm, lặng lẽ, khốn khổ... Họ là một mảng màu trong bức tranh cuộc sống, nhưng đôi khi do vô tình hay do quen thuộc quá mà ta thành vô cảm trước cuộc sống và số phận của họ. Thế nhưng, dù họ có nhỏ bé, có xấu xa, ngu dốt, tăm tối, ấu trĩ,... hay nông nổi đến đâu thì cũng cần những sự cảm thông chia sẻ:
Suốt cả đời người để có được miếng ăn, có được manh áo cho bản thân, cho con cái, họ phải nai lưng ra làm quần quật mọi công việc của ruộng đồng. Vừa làm vừa phải lo tính bổn phận làm người, lo cúng giỗ, ma chay, cưới xin. Ngoài ra còn phải chống chọi với mọi tai biến thiên tai, hạn hán, gió bão và lo ngay tới cả những mưu mô thủ đoạn giữa con người với con người gây ra, họ ganh ghét giật lấy từng tấc đất để kiếm ăn, họ ganh ghét ghen tị với nhau cũng là lẽ thường tình... Có hiểu thế mới thương họ và nhận ra những gì tốt đẹp ở họ. Cái tốt nằm ngay trong cái xấu xa, ngu dốt của họ. Sự chân thành nằm ngay trong sự gian dối. Sự sâu sắc cũng là thứ sâu sắc nông nổi... [13, tr.234].
      Bằng giọng điệu trữ tình xen lẫn xót xa, Dương Hướng đã gieo vào lòng mỗi chúng ta bao xúc động rưng rưng trước những cảnh ngộ đáng thương của nhân vật. Nga (Bóng đêm và mặt trời) sau cái đêm giông bão bị Tòng lợi dụng, lại còn phải biểu diễn cho Tòng và Bẩu - trưởng đoàn chèo xem một trích đoạn chèo, để rồi sau trích đoạn “Suý Vân”: “Nga khóc và ngồi lặng đi. Lúc này Nga không còn đóng kịch mà Nga khóc thật khóc âm thầm cho thân phận đau đớn của mình, khóc cho cả số phận của nàng Suý Vân tội nghiệp” [13, tr.158 - 159].
      Chiến tranh bao giờ cũng tàn khốc, gây ra ra bao nhiêu tang tóc, biệt ly, khiến cho vợ xa chồng, mẹ xa con... Biết bao người mẹ, người vợ, người phụ nữ đã phải chịu cảnh không chồng, hoặc có chồng cũng như không vì chiến tranh! Biết bao cái “Bến không chồng” trên khắp đất nước ta chưa đi vào trang sách! Cảm thương cho số phận của những con người bé nhỏ đó, không ít những trang văn, trang thơ đã ra đời, trong đó có tiểu thuyết Dương Hướng. Hình ảnh của Hạnh (Bến không chồng), với những tâm trạng ngổn ngang vào một buổi chiều trên bến vắng không khỏi khiến ngời đọc cảm thấy xót xa: “Bến vắng. Nỗi buồn cô liêu. Một nỗi nuối tiếc thoáng qua. Một thời xuân sắc và những phút ái ân với Nghĩa bỗng trỗi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra và rung lên ngây ngất trong hoang tưởng...” [13, tr.446 - 447]. Không chỉ có Hạnh mà biết bao người phụ nữ khác: Thắm, Dâu, Tươi, bà Nhân... (Bến không chồng) cũng đều phải hứng chịu những nỗi đau và mất mát lớn lao như thế. Để có thể khắc hoạ được số phận những con người nhỏ bé, đáng thương ấy, giọng điệu trữ tình, xót xa trở thành một phương tiện vô cùng đắc địa.
  3.3.2.2 Giọng giễu nhại, cười cợt và phê phán, tố cáo
      3.3.2.1.1 Giọng giễu nhại, cười cợt
      Đây là chất giọng tiêu biểu của thể loại tiểu thuyết, nó phá vỡ khoảng cách sử thi, đưa văn học về gần với hiện thực cuộc sống. Thông qua tiếng cười giễu nhại, chúng ta sẽ có thêm một cái nhìn mới về cuộc sống, từ đó nhận ra giá trị đích thực.
      Trần Tăng (Dưới chín tầng trời) trong phong trào cải cách ruộng đất hiện lên như một nét vẽ biếm hoạ trong mắt người dân làng Đoài: “Sếp đội Trần Tăng như có phép thần thông khiến cả làng đều sợ. Từ lũ trẻ con đến cụ già lụ khụ nhìn thấy Trần Tăng là khúm núm dạ vân, không dám cả nói to. Loài chó hung dữ thế, hễ nhìn thấy Trần Tăng là cụp đuôi lủi mất dạng. Chúng sợ khẩu súng đen sì lủng lẳng như đùi chó lúc nào cũng lách nhách bên hông Trần Tăng” [14, tr.80]. Thông qua cái cười chế giễu ấy, một phần con người Trần Tăng đã được hé lộ, đồng thời, qua đó, chúng ta cũng nhận ra thái độ coi thường của người dân làng Đoài đối với y.
      Cũng trong tiểu thuyết này, bức tranh nông thôn làng Đoài trong phong trào hợp tác hoá qua cái cười giễu nhại cũng đủ khắc hoạ thực trạng nông thôn Việt Nam nói chung trong một giai đoạn lịch sử dưới sự lãnh đạo của những kẻ cầm quyền nhưng ấu trĩ, hãnh tiến, chạy theo thành tích... như Trần Tăng và Đào Kinh:
Điểm thì nhiều, nhưng thóc lại ít, dân bắt dầu hoang mang, tháng ba ngày tám nhà nào cũng hết thóc đói vàng mắt. Các cụ nói cấm sai “Đói ăn vụng túng làm liều”, mọi người xoay ra ghen ghét đố kỵ ganh tỵ lẫn nhau. Trại chăn nuôi gà lợn ngày một xuống cấp lèo tèo vài chục chú lợn đói gầy teo tóp reo réo suốt ngày đêm đòi ăn. Trâu bò đem giết thịt hết. Đồng ruộng hợp tác xã đã có máy cày về thay thế. Hiện đại hoá, xã viên chả thấy sướng mà còn khổ hơn bởi trả công chi cho máy cày lớn quá. Vụ trước dắt trâu ra đồng còn được bát cơm, vụ này có máy cày về, xã viên lại ăn cháo. Lão Khi ngao ngán hát: Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà. Làm thật ăn cháo, làm láo nháo ăn cơm... [14, tr.116].
      Đôi khi, chất giọng giễu nhại, cười cợt đó lại xen lẫn có chút gì khiến người khác gai lạnh trong người bởi sự tráo trở của thế thái nhân tình:
Đám tang ông Đức Cường được vợ chồng Thu Cúc lo tổ chức thật long trọng. Phải thế chứ, ông Đức Cường là thương gia yêu nước đã hiến cho cách mạng những hai nhà máy, và có công giúp đỡ quân giải phóng trong thời kỳ chiến tranh gian khổ. Quan khách các cấp chính quyền từ phường xã quận huyện đến tỉnh đều về dự đông đủ. Ai cũng rưng rưng nghe chị Thu Cúc đọc điếu văn trước giờ đưa vị thương gia về nơi an nghỉ cuối cùng [14, tr.280].
      Mỉa mai thay, sự long trọng của tang lễ đó không phải vì thực lòng thương xót người quá cố mà chỉ là một sự phô diễn thanh danh, khoách trương thanh thế cho nhà tổ chức. Mỉa mai thay, cái chết của thương gia Đức Cường có nguyên nhân sâu xa từ sự “bạc lòng” của kẻ mang danh tổ chức đám tang ấy cho ông. Bởi lẽ, cái chết của thương nhân Đức Cường và sự tan nát của gia đình ông sau này dường như là sự “cố ý” của Thu Cúc, như linh cảm của Hoàng Kỳ Nam.
      3.3.2.1.2 Giọng phê phán, tố cáo
      Nếu như giọng giễu nhại, cười cợt chỉ là sự đả phá hiện thực xã hội ở mức độ nhẹ, thì giọng phê phán tố cáo lại là sự đả phá ở mức độ cao hơn. Thông qua giọng phê phán, tố cáo, những thực trạng, vấn nạn, hay mặt trái của một thể chế xã hội được phơi bày. Hãy nghe những lời tâm sự tận đáy lòng của Măng về con đường hư hỏng của mình, nó chua chát mà đầy sức mạnh tố cáo thực trạng xã hội:
Bố nghĩ rằng con hư hỏng chứ gì? Đúng! Con mà không hư hỏng làm sao con được như ngày hôm nay, làm sao có được ngôi nhà này. Có ngôi nhà này Trần Tăng tẹo nữa bị mất chức đấy. Cuối cùng con cũng đành phải “hư hỏng” mới cứu được bố Trần Tăng. Con cứu được bố Trần Tăng cũng là cứu chính con. Con đã hư hỏng ngay với kẻ định cách chức bố Trần Tăng đấy. Bố Trần Tăng mất chức thì chuyện làm ăn của con cũng đi tong. Bố thấy đấy, trong chuyện này chẳng riêng gì con hư hỏng. Trần Tăng hư hỏng, người định cách chức bố Trần Tăng con cũng hư hỏng. Chúng ta đều là những kẻ hư hỏng [14, tr.402].
3.3.3 Giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm và định hướng nhân bản
  3.3.3.2 Giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm
      Tính triết lý trong giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết Dương Hướng thể hiện trong rất nhiều chủ đề khác nhau, tình yêu, cái chết, hạnh phúc, thời thế..., nó cho thấy một sự trải nghiệm và suy ngẫm về cuộc sống của tác giả. Có thể dẫn ra một vài ví dụ: “Có lẽ đứng trước cái chết, con người ta bao giờ cũng trở nên nhân ái, chân tình với nhau hơn” [13, tr.174], hay “Thời thế nó cũng tạo nên anh hùng và thời thế cũng làm hỏng con người ta mau lắm” [13, tr.510], hoặc là: “đã sinh ra trên cõi đời này chẳng thằng nào muốn xấu, chẳng qua là thời cuộc khốn cùng nó dồn đẩy làm cho con người ta cứ hèn đi” [14, tr.467]...
      Giọng điệu này không chỉ là những phát ngôn của người kể chuyện: “Trên đời này không có thần thánh ma quỷ, chỉ có người sống người chết. Chết là hết” [14, tr.98],... mà nó còn được thể hiện thông qua lời nói của nhân vật: “Sự buồn tẻ nhất trong tâm hồn con người là không có niềm tin. Sống không có niềm tin, con người dám làm mọi chuyện” [13, tr.212], hay: “...không thể quân tử với bọn tiểu nhân. Mình không thịt nó thì nó thịt mình” [14, tr.109], hoặc là: “Cả cuộc đời này là một chuỗi sai lầm... Có những sai lầm mình nhìn ra, lại có những sai lầm mình không nhìn ra. Và có cả những sai lầm mình đã nhìn ra nhưng lại không dám thừa nhận...” [14, tr.352]... do đó nó khá phong phú trong tiểu thuyết Dương Hướng.
      Tính chất tiểu thuyết thể hiện trong kiểu giọng điệu này có lẽ được xuất phát từ những câu triết lý vặt, những ý nghĩa rút ra từ chính cuộc sống thường nhật của con người thông qua phát ngôn của nhân vật hay lời người kể chuyện dị sự. Tuy nhiên, với Dương Hướng, đôi khi dù triết lý vặt nhưng vẫn đặt ra được những vấn đề đáng suy nghĩ, như GS. Hoàng Ngọc Hiến từng nhận xét: “Anh cũng hay triết lý vặt...nhưng đôi khi anh đặt ra được những vấn đề có chiều sâu tư tưởng đáng suy nghĩ” [10, tr.503]. Ấy chính là cái tài của Dương Hướng. Chỉ qua vài câu đối thoại của những nhân vật trong đám đông:
- Làng mình thế mà oai thật. Toàn những người tài giỏi.
 - Giỏi đánh đĩ thì có, mụ Cỏn thì thầm vào tai cô Lùn, nó không phải con gái Trần Tăng thì bây giờ cắm mặt cấy gặt ngoài đồng như mình lấy đâu ra tiền mà đóng với chả góp.
 - Cái mụ này ăn nói rõ bạc, nó đánh đĩ nhưng có lòng, chả hơn cả đời chả ai nom được ở mụ một xu.
- Tao nghèo nhưng tao trong sạch [14, tr.466].
Dương Hướng đã đặt ra được vấn đề căn bản của đời sống đạo đức trong xã hội ta ngày nay. Theo đó, “đời sống hệ tư tưởng của chúng ta sẽ đơn giản hơn, trong sáng và minh bạch hơn rất nhiều nếu như chỗ nhấn được đặt đúng chỗ đáng nhấn: có lòng hay không có lòng” [10, tr.504].
      Có thể nói, chất giọng triết lý, chiêm nghiệm không phải là nét đặc trưng riêng có của tiểu thuyết Dương Hướng. Ta cũng có thể tìm thấy chất giọng này trong nhiều tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu của thời kỳ đổi mới như: Thời xa vắng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nỗi buồn chiến tranh... Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, đó là một thế mạnh của Dương Hướng trong sáng tạo tiểu thuyết. Cùng với các giọng điệu khác, chất giọng này đã góp phần không nhỏ tạo nên đặc điểm tiểu thuyết cũng như tính nhân văn, nhân bản cho những đứa con tinh thần của nhà văn xứ mỏ.
  3.3.3.2 Giọng điệu mang định hướng nhân bản
      Mỗi một tác phẩm của Dương Hướng đều có thể xem là lời kêu gọi hướng con người đến cái thiện, đến giá trị nhân bản bên trong mỗi con người, mỗi số phận. Chính điều này đã chi phối phần nào đến giọng điệu trong tiểu thuyết của ông. Vì thế, tính định hướng nhân bản cũng được xem là một trong những tính chất làm nên đặc điểm giọng điệu trong tiểu thuyết Dương Hướng. Do ảnh hưởng của giọng điệu mang định hướng nhân bản như vậy cho nên dù trong hoàn cảnh nào, tình huống nào thì tiểu thuyết Dương Hướng cũng hướng đến con người và vì cuộc sống của con người.
      Khi xây dựng mối quan hệ giữa Hạnh và chú Vạn, nhiều người sẽ cho rằng đây là một mối quan hệ “loạn luân”, không đáng có, nhưng với Dương Hướng, bằng chất giọng mang định hướng nhân bản, ông lại hướng cho người đọc thấy ở đó một ngã rẽ mới - con người có quyền làm chủ vận mệnh và kiếp sống ngắn ngủi của chính mình. Hạnh và chú Vạn là những nạn nhân của thời đại, họ đã phải chịu đựng biết bao giày vò, đau khổ, họ xứng đáng được hưởng hạnh phúc, dù là hạnh phúc nở ra từ những nỗi đau khác. Hạnh có quyền được làm mẹ. Hạnh cũng có quyền được mang hạnh phúc đến cho một người khác và với cô đó là người tốt nhất nhưng cũng đau khổ nhất. Vạn cũng có quyền có được hạnh phúc làm chồng, làm cha lắm chứ. Và họ đến với nhau trong một hoàn cảnh vừa éo le, vừa đầy bản năng tự nhiên của một con người. Hạnh phúc dù ngắn ngủi, nhưng đó là giây phút hạnh phúc nhất đời Vạn cho đến lúc chết và nó cũng đã đem lại cho Hạnh hạnh phúc được làm mẹ - hạnh phúc mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng mong muốn.
      Cũng với giọng điệu ấy, Dương Hướng đã khiến cho cái chết của Vạn không chỉ là một sự giải thoát của con người trong một tình huống phức tạp, khó xử trong xã hội. Cái chết đó cũng giống như cái chết của Trần Tăng, đều nhằm thể hiện cho một quan điểm của nhà văn: những cái gì phải mất đi, nên mất đi thì tất yếu sẽ mất đi. Vạn là một chiến sĩ Điện Biên anh hùng, một cán bộ mẫn cán trong phong trào cải cách, nhưng lối sống ép xác và cách hành xử của anh chỉ phù hợp trong một hoàn cảnh cụ thể. Anh đại diện cho cái cũ, cho những giá trị già nua. Đến khi hoàn cảnh thay đổi thì tất yếu cái cũ ấy sẽ bị mất đi, nhường chỗ cho một cái mới khác sẽ thay thế. Cũng như Trần Tăng, dù đã có những lúc ông ta được ở vị trí “thái thượng hoàng”, dù đã gắn bó và gây ra bao nhiêu đau khổ cho người dân làng Đoài, nhưng trước khi chết ông ta cũng đã nhận ra những sai lầm, ấu trĩ của mình. Tác giả đã để cho nhân vật này có những giây phút sám hối cuối đời, để Trần Tăng được nằm lại trên mảnh đất có quá nhiều kỷ niệm với ông, theo tâm nguyện của ông. Và đám tang của Trần Tăng, theo một cách nào đó có thể xem như là cuộc tiễn đưa cái cũ để có thể đón nhận một cái mới tiến bộ hơn, tươi sáng hơn.
      Như vậy, sử dụng chất giọng này, Dương Hướng đã đem đến cho người đọc sự thức nhận về những giá trị nhân bản ẩn sâu trong mỗi con người, về sự trôi chảy không ngừng của cuộc sống - cái cũ mất đi, cái mới sẽ xuất hiện. Hiểu được những điều này, con người hẳn có thể sống nhân ái với nhau hơn.
      Tóm lại, nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng không chỉ được bộc lộ qua nhân vật, kết cấu, hình tượng không - thời gian mà còn có trong cả nghệ thuật trần thuật thông qua ba bình diện cơ bản: hình tượng người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật. Thông qua hai hình thức người kể chuyện: người kể chuyện dị sự và nhân vật trong vai trò người kể chuyện, Dương Hướng đã tạo nên tính phi sử thi và bất ngờ trong tác phẩm của mình. Do sự chi phối của đặc điểm về hình tượng người kể chuyện, một hệ thống điểm nhìn trần thuật khá phong phú được tổ chức theo hình thức luân chuyển và phối hợp với nhau một cách linh hoạt soi chiếu những điều vụn vặt, đang tiếp diễn, những cảm xúc nhất thời, những không gian, thời gian mang tính thế sự đời tư... của nhân vật. Những đặc điểm về hình tượng người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng đã chi phối giọng điệu trần thuật, tạo nên tính đa giọng điệu trong tác phẩm với ba dạng thức cơ bản: giọng điệu trần thuật, phân tích; các sắc điệu trữ tình; giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm và định hướng nhân bản. Từ đây, ta không chỉ hiểu rõ hơn những đặc điểm của tiểu thuyết trong nghệ thuật trần thuật mà còn nhận ra dấu ấn riêng của nhà văn được biểu hiện ở phương diện này.
KẾT LUẬN
      Trong dòng chảy miệt mài của văn chương, tiểu thuyết là một thể loại vẫn đang vận động không ngừng bởi lẽ, nó có những đặc trưng mà không bất cứ thể loại nào có được, hơn thế nữa, những đặc trưng này theo thời gian cũng có ít nhiều biến đổi, đa dạng, phức tạp hơn. Do vậy, việc tìm hiểu những đặc trưng của tiểu thuyết thông qua những sáng tác của một nhà văn là việc làm cần thiết đối với Lý luận văn học. Khảo sát nghệ thuật tiểu thuyết của Dương Hướng, nhà văn đã gây được sự chú ý của văn giới và độc giả ngay từ tiểu thuyết đầu tay - Bến không chồng (1990) - giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (1991) và đang làm xôn xao văn đàn bởi sự trở lại sau hơn 15 năm bằng tiểu thuyết Dưới chín tầng trời (2007), không chỉ đáp ứng được yêu cầu đó mà còn giúp tìm hiểu thêm về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học đương thời.
      Có thể tiến hành tìm hiểu nghệ thuật tiểu thuyết của một nhà văn theo nhiều hướng và trên nhiều phương diện khác nhau, dù vậy, chúng ta không thể không đi qua các nội dung cơ bản: Nhân vật, kết cấu, không thời gian, nghệ thuật trần thuật. Nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng từ những nội dung này chúng ta thấy được nguồn riêng của nhà văn trong dòng chung văn học Việt Nam đương đại.
      Về phương diện nhân vật, với cái nhìn thẳng thắn, trực diện về cuộc sống, với quan niệm biện chứng, sát thực về con người, Dương Hướng đã tạo ra một thế giới khá đa dạng về con người trong tác phẩm của mình. Sự đa dạng ấy có thể do nghề nghiệp, địa vị, tuổi tác, địa bàn hoạt động... hay số lượng nhân vật quy định, nhưng mặt khác là do họ được soi chiếu từ nhiều góc độ hay bút pháp khác nhau, tạo nên những loại hình nhân vật khác nhau trong tác phẩm. Nhưng dù nhân vật được nhìn từ góc độ nào, thể loại hay phong cách, xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật gì thì qua đó ta vẫn nhận ra tính chất tiểu thuyết của tác phẩm từ phương diện nhân vật. Từ đó, ta thấy được phần nào những nỗ lực của nhà văn trong việc góp phần tạo nên diện mạo của văn xuôi Việt Nam sau 1986 nói riêng, văn học Việt Nam nói chung ở phương diện này.
      Về kết cấu, tiểu thuyết Dương Hướng chủ yếu sử dụng hai kiểu kết cấu: kết cấu ghép mảnh và kết cấu trùng điệp. So với văn chương đương đại thì hai kiểu kết cấu này không quá mới mẻ, độc đáo, tuy nhiên nếu kết cấu trùng điệp mang lại hiệu quả nhất định cho tiểu thuyết Dương Hướng, thì kết cấu ghép mảnh (đặc biệt là ở Dưới chín tầng trời) lại chứng tỏ một sự vượt thoát của nhà văn khỏi chính bản thân mình, khỏi những mô hình kết cấu của văn chương Việt Nam những năm đầu đổi mới, kể cả với Nỗi buồn chiến tranh bởi quy mô của nó. Do vậy mà từ phương diện này ta cũng thấy được phần nào đóng góp của Dương Hướng cho nền văn học Việt Nam hiện nay.
      Hình tượng không - thời gian trong tiểu thuyết Dương Hướng cũng là một trong những phương diện nghệ thuật đặc sắc và mang những ý nghĩa nhất định trong tiểu thuyết Dương Hướng, bởi với ông, nó là môi trường, không khí mà nhân vật sống và trải nghiệm cuộc đời với trọn vẹn những hạnh phúc, khổ đau của thân phận con người. Về không gian, sự phối kết hợp các kiểu không gian: hiện thực, huyễn tưởng, tâm trạng thành không gian nghệ thuật của tác phẩm đã cho thấy tính chất chủ quan, đời tư, thế sự của không gian trong tiểu thuyết Dương Hướng. Bên cạnh đó, việc tổ chức các kiểu thời gian: đan xen giữa hiện tại và quá khứ; hay kết hợp, đan cài giữa hiện thực và huyền thoại theo hai hình thức: chủ quan và phi tuyến tính, tác giả cũng đã tạo nên một bức tranh cuộc sống sinh động, đầy những bí ẩn lung linh giữa thực và ảo, những níu giữ, ràng buộc con người giữa hiện tại và quá khứ...Qua đó, một lần nữa khẳng định phong cách riêng của nhà văn về xây dựng hình tượng không - thời gian trong nghệ thuật tiểu thuyết.
      Về nghệ thuật trần thuật, với hai hình thức người kể chuyện: người kể chuyện dị sự toàn năng và nhân vật đóng vai trò người kể chuyện; với việc kết hợp nhiều loại điểm nhìn khác nhau trong miêu tả và xây dựng hình tượng; cùng những giọng điệu đặc trưng, mang đậm dấu ấn Dương Hướng: trần thuật, phân tích, trữ tình, triết lý – chiêm nghiệm và định hướng nhân bản, nhà văn đã hướng tới thể hiện con người từ nhiều góc độ khác nhau, từ đó giúp người đọc nhận ra giá trị nhân bản bên trong của mỗi nhân vật.          
      Có thể ghi nhận những thành công của Dương Hướng trong việc tái hiện lại bức tranh lịch sử xã hội qua các thời kỳ của dân tộc, trong việc khắc hoạ nhân vật từ nhiều góc độ sáng - tối khác nhau... Những gì nhà văn đã đạt được đều xuất phát từ cái tình bao la với đời, với người; cái tâm huyết với nghề viết - viết như một nhu cầu muốn nói, muốn giãi bày những suy ngẫm, trở trăn, trải nghiệm của đời mình; và sự nỗ lực cống hiến cho sự phát triển của thể loại... Người ta có thể mong muốn nhiều hơn về mặt nghệ thuật, song cũng không thể không thừa nhận: Trong văn chương, câu chữ gọt giũa, bóng bẩy cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn có lẽ là ở cái tâm của người viết. Chả thế mà, bao năm nay, tiểu thuyết Dương Hướng dù được viết bằng một ngôn ngữ tự nhiên, mộc mạc mà vẫn chiếm được một chỗ đứng trong lòng không ít những thế hệ độc giả hôm qua và hôm nay. Giữa bộn bề của cuộc sống hối hả hiện thời, những tác phẩm như tiểu thuyết Dương Hướng - vừa bổ sung, làm mới cho tiểu thuyết dân tộc, vừa có sức lay động tâm thức người Việt tự hào về quá khứ, nỗ lực vì hiện tại và tin tưởng ở tương lai... thực sự là những sáng tác có giá trị, nhất là giữa lúc văn học Việt Nam đang đứng trước nỗi lo âu về sự ra đời của những tác phẩm tương xứng với không khí của thời đại và tiến kịp với tiểu thuyết thế giới như hiện nay.
      Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp kể trên, tiểu thuyết Dương Hướng không phải không có những điều đáng bàn về mặt nghệ thuật. Chọn thể loại tiểu thuyết để sáng tạo, Dương Hướng mong muốn tác phẩm của mình thể hiện được bức tranh rộng lớn về đời sống và con người, những vấn đề bức xúc của thời đại. Khát vọng ấy có thể đã làm ảnh hưởng đến tính nghệ thuật của tác phẩm. Trước hết, tiểu thuyết Dương Hướng trong khi thể hiện nội tâm nhân vật, ít nhiều đã để cho nhân vật sa vào kể lại nội dung của sự việc, khiến cho tâm trạng thật sự của nhân vật bị “loãng”, do vậy chưa thật sự để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Thứ hai, đôi khi, việc hay tổng kết lại nội dung sự việc thông qua ý nghĩ của nhân vật trong tiểu thuyết của Dương Hướng lại trở thành con dao hai lưỡi đối với nghệ thuật tiểu thuyết. Bên cạnh việc giúp cho người đọc dễ theo dõi cốt truyện bị phân mảnh, cách viết ấy lại trở thành một sự vi phạm nghệ thuật tiểu thuyết ở tính chất bất ngờ hợp lý của nó vì mọi sự việc đều đã được kiến giải và nằm trong tầm kiểm soát của người viết, khiến cho người đọc nhận ra bàn tay sắp đặt sẵn của nhà văn.
      Với đề tài này, người viết đã cố gắng đi sâu khám phá những phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Dương Hướng, qua đó không chỉ làm rõ hơn về những đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết nói chung mà còn cho thấy những đóng góp của Dương Hướng đối với tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, từ đó góp phần khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học dân tộc. Tuy nhiên, do giới hạn của luận văn, nên những vấn đề được đặt ra trong công trình này cũng chỉ được giải quyết trong một phạm vi nhất định, lẽ tất nhiên, nó sẽ còn những khoảng trống cho những ai yêu thích Dương Hướng tiếp tục tìm hiểu. Không chỉ trong giới hạn của đề tài luận văn mà có thể nói, nhà văn Dương Hướng và tiểu thuyết Dương Hướng vẫn đang là một đề tài mở, nhiều triển vọng cho việc tiếp tục nghiên cứu về sau của những ai quan tâm và yêu mến “nhà văn của lòng nhân ái” này.      
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - Một cái nhìn khái quát”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 2), tr.49 - 54.
3. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB KHXH, Hà Nội.
4. Lê Hà Dung (2008), Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Dương Hướng, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH Huế.
5. Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn) (2005), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.
6.   Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tonxtoi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hoá, Huế.
8. Bùi Như Hải (2007), Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam về đề tài nông thôn từ 1986 đến 2006, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Huế.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Hoàng Ngọc Hiến (2007), “Cách nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời”, Dưới chín tầng trời - Dương Hướng, NXB Hội nhà văn, tr.503 - 514.
11. Quốc Huấn (2008), “Đầu xuân trò chuyện với nhà văn Dương Hướng”, Báo Quảng Ninh (số 20), tr. 21 và 28.
12. Đinh Thị Huyền (2008), “Nhân vật của tiểu thuyết “Hậu chiến”, Tạp chí văn học (số 10), tr. 105 - 113.
13. Dương Hướng (2004), Bến không chồng, Bóng đêm và mặt trời, NXB Công An nhân dân, Hà Nội.
14. Dương Hướng (2007), Dưới chín tầng trời, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
15. Phong Lê (2009), Dương Hướng - từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời”, Tạp chí Sông Hương (248), tr.75 - 80.
16. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Lê Lựu (2005), Thời xa vắng, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
18. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư (dịch), Bộ văn hóa thông tin và thể thao - Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
19. Bảo Ninh (2008), Nỗi Buồn chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội.
20. Như Quỳnh (2007), “Tác giả Bến không chồng trở lại”, Báo Tuổi trẻ (số 118), tr.13.
21. Trần Đình Sử (2005), Những công trình lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
23. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học (phần hai), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
24. Trần Đình Sử (cb), La Khắc Hoà, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Nam (2008), Lí luận văn học (tập 2) - Tác phẩm và thể loại văn học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
25. Nguyễn Khắc Trường (2003), Mảnh đất lắm người nhiều ma, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
26. Hữu Tuân (2007), “Dưới chín tầng trời - Bức tranh hiện thực hoành tráng”, Tạp chí Non nước (số 11), tr.20 - 23.
27. Văn nghệ Hạ Long (1999), “Nhiệm vụ cao cả của nhà văn là kiếm tìm cái đẹp” (số 11), tr.7.
28. Lê Cảnh Vững (1996), Tiểu thuyết Việt Nam những năm 90 - vấn đề và luận giải, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Huế.
29. Thiên An, “Nhà văn Dương Hướng - tác giả Bến không chồng: Người dám “đùa với áo cơm”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
30. Hà Minh Đức (2009), “Bàn về khía cạnh trần thuật trong tiểu thuyết”, www.vietvan.vn.
31. Nguyễn Xuân Hải (2009), “Bến không chồng - Bến đỗ văn chương...”, http:// vnca.cand.com.vn.
32. Phan Hằng, “Số phận bi tráng của người phụ nữ sau chiến tranh”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
33. Dương Hướng, “Đêm trăng”, “Dì sa”, “Hương hoa gạo”, “Bến khách”, “Khoảng trời riêng”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
34. Phùng Văn Khai (2010), “Người đàn ông ở Bến không chồng”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
35. Nguyễn Duy Liễm (2009), “Dương Hướng - Người ghi mốc son cho văn học thời kỳ đổi mới”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
36. Nguyễn Duy Liễm (2008), “Tản mạn về Dương Hướng với Bến không chồngDưới chín tầng trời”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
37. Mai Hải Oanh (2007), “Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật tiểu thuyết trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, http//www vanhoanghethuat.com.vn.
38. Khánh Phương (2007), “Nhà văn Dương Hướng - 15 năm thai nghén Dưới chín tầng trời”, http:// www nld.com.vn/tintuc/van-hoa/207316.asp.
39. Tiểu Quyên (2007), “Dương Hướng nghỉ không lương viết Dưới chín tầng trời”, Evan, mục Chân dung.
40. Trần Huyền Sâm (2008), “Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh”, http// www tapchisonghuong. com.vn (Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 205 - 03 - 2006).
41. Trần Thị Phương Thảo (2008), “Dương Hướng sau Bến không chồng”, duonghuongqn. vnwebblogs.com.
42. Bùi Việt Thắng (2008), “Bi kịch lạc quan trong Dưới chín tầng trời”, duonghuongqn.vnwebblogs.com.
43. Đỗ Tiến Thụy (2007), “Nhà văn của những Bến không chồng”, duonghuongqn. vnwebblogs.com.
44. Lê Ngọc Trà (2006), “Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới”, http// www. vienvanhoc.org.vn.
45. Hoài Trân (2008), “Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới: có mới không?”, http// www.vannghequandoi.com.vn.
46. Hạnh Vũ (2007), “Hãy cứ để cuốn sách bước ra cuộc đời của nó”, http:// www.vovnews.vn/?page=109&nid=50936.


1 nhận xét:

Unknown nói...

Chú ơi cho cháu hỏi tên đề tài của Minh Huyền là gì ah